Moderator
Hồi học trong trường, Dung sai là 1 bộ môn thực sự "kinh khủng" đối với tôi. Vì bài học mang tính lý thuyết quá cao, công với phương pháp giảng dạy chưa được cải tiến nên cho đến tận bây giờ khi dạo qua các diễn đàn đều thấy 1 điểm chung(bản thân tôi ngày xưa cũng vậy): Sinh viên mới hầu như chả biết gì hoặc biết mập mờ về Dung sai.
Và một điểm tệ hại ở phần đông sinh viên khi hỏi ở các diễn đàn là: không muốn hiểu, mà chỉ muốn câu trả lời cho bài tập của mình ngay lúc đó. Nhưng họ không hiểu rằng đó là 1 cách học giết chết họ trong tương lai. Vì làm được bài tập chỉ giúp họ qua được môn đó. Nhưng hiểu căn bản sẽ giúp họ cả đời không phải vất vả vì nó.
Vậy nên: hiểu thế nào cho dễ tưởng tượng, dễ suy nghĩ?
Câu trả lời đơn giản: Liên tưởng nó khi bạn đo đạc chi tiết. Đây chính là chìa khóa của mọi vấn đề mà khi tôi trình bày lại về các khái niệm dung sai tôi cũng sẽ dùng cách này để giải thích.
Vậy vì sao bạn cần Dung sai?
Tưởng tượng thế này: Tự nhiên cái bóng điện nhà bạn bị cháy, bạn cần thay thế nó. và chi tiết máy của bạn cũng vậy, khi bạn sản xuất ra nhiều sản phẩm thì việc "dễ dàng thay thế" là một đòi hỏi không thể thiếu được. Tuy nhiên thực tế lại phũ ở chỗ: Cùng 1 bản vẽ, cùng 1 người gia công, cùng 1 máy nhưng không thể cho 2 sản phẩm giống hệt nhau được. Chính vì cái thực tế phũ phàng này mà dung sai được sinh ra. Vậy nên việc chỉ ra phạm vi cho phép(khi thành sản phẩm kích thước thực nằm trong khoảng cho phép) là một điều rất quan trọng.
Có 2 loại dung sai khá đau đầu là Dung sai kích thước và dung sai hình học.
1.Dung sai kích thước: chỉ với 1 kích thước(ví dụ chi tiết rộng 30mm) mà có đến 3 cách ghi khác nhau.
một là ghi thẳng ra là kích thước 30 và trên khung bản vẽ ghi sẵn bảng quy định về dung sai cho phép. Người đứng máy tự tra. Ở Nhật thì có tiêu chuẩn Jis, còn ở VN thì mình chịu, nhưng đọc được trên diễn đàn Meslab có 1 bạn nói là dùng ISO 2768 (Link: Bấm vào đây)
và đây là hình minh họa
Với hình vẽ này ta sẽ thấy kích thước dài 30 nếu cấp độ trung bình thì dung sai là ±0.2
Cách ghi thứ 2 là điền thẳng giá trị dung sai vào bản vẽ
cách thứ 3 là kí hiệu dung sai ví dụ 30h9 tức là 30+0/-0.087
Mấy cái này dễ hiểu、dễ tìm nên đến đây là hết về dung sai kích thước.
2.Dung sai hình học
2.1 Trước tiên là khái niệm Mặt(điềm/đường) chuẩn(Datum)
Tưởng tượng thế này: Trong xưởng làm việc luôn có 1 cái bàn chuẩn(khi nào đi làm sẽ thấy). Khi muốn đo đạc bất kì 1 kích thước hay dung sai của chi tiết(k phải dạng tròn) ta cần có 1 cái mặt "siêu phẳng & rộng" (trong chỗ mình làm việc thấy nó giống bàn đá, phẳng lì luôn) từ đó dùng các dụng cụ đo kiểm tra chi tiết của ta. Lúc đó ra có Mặt chuẩn A.(có nhiều từ để gọi về cái bàn chuẩn như: bàn map, bàn rà chuẩn, Granite Plates)
Bàn Map, Bàn rà chuẩn hay Granite Plates
Vậy là ta có thể dùng mặt chuẩn A này để đo cao dộ, kiểm tra độ song song, độ vuông góc vân vân.
Còn mặt chuẩn B và C tạm hiểu là 2 mặt vuông góc với nhau và vuông góc với chuẩn A.
2.2 Thứ tự ưu tiên của mặt chuẩn:
Về quy ước chung: Chuẩn ưu tiên theo thứ tự chữ cái A rồi đến B rồi đến C
Đôi khi trong 1 số bản vẽ sẽ xuất hiện thêm cả D nữa cơ
Mặt chuẩn A luôn là mặt quyết định việc đặt chi tiết lên bàn "siêu chuẩn", sau đó đến mặt B là mặt chiếu chính, và mặt C là hình chiếu trái.
3. Các loại sai lệch và thực tế ra sao?
3.1 Sai lệch độ thẳng:
Lí thuyết
Video ví dụ cho hình số 3:
https://youtu.be/4fVIesTTfxs
Có 1 câu hỏi đặt ra. Nếu có Phi vào k có phi trong cách ghi trên thì có gì khác nhau? và cái nào thì có Phi?
Câu trả lời là Phi là dùng cho những trụ tròn, còn mặt phẳng thì k bao giờ có Phi
Với hình này: Mũi tên được áp vào mặt trụ tròn của chi tiết, nên nếu nhìn 1 cách phóng đại thì tâm của nó nằm trong vùng màu đỏ là OK(tâm nằm trong trụ tròn phi 0.05) trên mọi mặt cắt đo cùng trên 1 đồ gá
Nhưng cũng là trụ tròn mà không ghi Phi thì ghi thế nào? Lúc đó nó chỉ có 1 mũi tên hướng vào mặt. Cách đo như trên đã nói là sẽ dùng 1 thước thẳng ốp vào đường dọc trục hướng đi qua tâm. tìm khe lớn nhất rồi dùng thước chuyên dụng đo khe hở để kiểm tra
Dưới đây là chi tiết vuông
Còn nữa
Private Blog
https://dovanhoc.wordpress.com
Và một điểm tệ hại ở phần đông sinh viên khi hỏi ở các diễn đàn là: không muốn hiểu, mà chỉ muốn câu trả lời cho bài tập của mình ngay lúc đó. Nhưng họ không hiểu rằng đó là 1 cách học giết chết họ trong tương lai. Vì làm được bài tập chỉ giúp họ qua được môn đó. Nhưng hiểu căn bản sẽ giúp họ cả đời không phải vất vả vì nó.
Vậy nên: hiểu thế nào cho dễ tưởng tượng, dễ suy nghĩ?
Câu trả lời đơn giản: Liên tưởng nó khi bạn đo đạc chi tiết. Đây chính là chìa khóa của mọi vấn đề mà khi tôi trình bày lại về các khái niệm dung sai tôi cũng sẽ dùng cách này để giải thích.
Vậy vì sao bạn cần Dung sai?
Tưởng tượng thế này: Tự nhiên cái bóng điện nhà bạn bị cháy, bạn cần thay thế nó. và chi tiết máy của bạn cũng vậy, khi bạn sản xuất ra nhiều sản phẩm thì việc "dễ dàng thay thế" là một đòi hỏi không thể thiếu được. Tuy nhiên thực tế lại phũ ở chỗ: Cùng 1 bản vẽ, cùng 1 người gia công, cùng 1 máy nhưng không thể cho 2 sản phẩm giống hệt nhau được. Chính vì cái thực tế phũ phàng này mà dung sai được sinh ra. Vậy nên việc chỉ ra phạm vi cho phép(khi thành sản phẩm kích thước thực nằm trong khoảng cho phép) là một điều rất quan trọng.
Có 2 loại dung sai khá đau đầu là Dung sai kích thước và dung sai hình học.
1.Dung sai kích thước: chỉ với 1 kích thước(ví dụ chi tiết rộng 30mm) mà có đến 3 cách ghi khác nhau.
một là ghi thẳng ra là kích thước 30 và trên khung bản vẽ ghi sẵn bảng quy định về dung sai cho phép. Người đứng máy tự tra. Ở Nhật thì có tiêu chuẩn Jis, còn ở VN thì mình chịu, nhưng đọc được trên diễn đàn Meslab có 1 bạn nói là dùng ISO 2768 (Link: Bấm vào đây)
và đây là hình minh họa
Với hình vẽ này ta sẽ thấy kích thước dài 30 nếu cấp độ trung bình thì dung sai là ±0.2
Cách ghi thứ 2 là điền thẳng giá trị dung sai vào bản vẽ
cách thứ 3 là kí hiệu dung sai ví dụ 30h9 tức là 30+0/-0.087
Mấy cái này dễ hiểu、dễ tìm nên đến đây là hết về dung sai kích thước.
2.Dung sai hình học
2.1 Trước tiên là khái niệm Mặt(điềm/đường) chuẩn(Datum)
Tưởng tượng thế này: Trong xưởng làm việc luôn có 1 cái bàn chuẩn(khi nào đi làm sẽ thấy). Khi muốn đo đạc bất kì 1 kích thước hay dung sai của chi tiết(k phải dạng tròn) ta cần có 1 cái mặt "siêu phẳng & rộng" (trong chỗ mình làm việc thấy nó giống bàn đá, phẳng lì luôn) từ đó dùng các dụng cụ đo kiểm tra chi tiết của ta. Lúc đó ra có Mặt chuẩn A.(có nhiều từ để gọi về cái bàn chuẩn như: bàn map, bàn rà chuẩn, Granite Plates)
Vậy là ta có thể dùng mặt chuẩn A này để đo cao dộ, kiểm tra độ song song, độ vuông góc vân vân.
Còn mặt chuẩn B và C tạm hiểu là 2 mặt vuông góc với nhau và vuông góc với chuẩn A.
2.2 Thứ tự ưu tiên của mặt chuẩn:
Về quy ước chung: Chuẩn ưu tiên theo thứ tự chữ cái A rồi đến B rồi đến C
Đôi khi trong 1 số bản vẽ sẽ xuất hiện thêm cả D nữa cơ
Mặt chuẩn A luôn là mặt quyết định việc đặt chi tiết lên bàn "siêu chuẩn", sau đó đến mặt B là mặt chiếu chính, và mặt C là hình chiếu trái.
3. Các loại sai lệch và thực tế ra sao?
3.1 Sai lệch độ thẳng:
Lí thuyết
Video ví dụ cho hình số 3:
https://youtu.be/4fVIesTTfxs
Có 1 câu hỏi đặt ra. Nếu có Phi vào k có phi trong cách ghi trên thì có gì khác nhau? và cái nào thì có Phi?
Câu trả lời là Phi là dùng cho những trụ tròn, còn mặt phẳng thì k bao giờ có Phi
Với hình này: Mũi tên được áp vào mặt trụ tròn của chi tiết, nên nếu nhìn 1 cách phóng đại thì tâm của nó nằm trong vùng màu đỏ là OK(tâm nằm trong trụ tròn phi 0.05) trên mọi mặt cắt đo cùng trên 1 đồ gá
Nhưng cũng là trụ tròn mà không ghi Phi thì ghi thế nào? Lúc đó nó chỉ có 1 mũi tên hướng vào mặt. Cách đo như trên đã nói là sẽ dùng 1 thước thẳng ốp vào đường dọc trục hướng đi qua tâm. tìm khe lớn nhất rồi dùng thước chuyên dụng đo khe hở để kiểm tra
Dưới đây là chi tiết vuông
Còn nữa
Private Blog
https://dovanhoc.wordpress.com
Last edited: