@Dongnhan: vật liệu theo mình được học chỉ dùng để chỉ những vật rắn mà con người sử dụng để chế tạo dụng cụ, thiết bị ,máy móc, xây dựng công trình... Do đó tất cả các chất lỏng, khí cho dù quan trọng nhưng cũng không được đề cập đến.
@ luonggiatrang9: đo độ cứng là phương pháp xác định cơ tính đơn giản nhất, do đó nó được sử dụng rất rộng rãi và tất nhiên rất quan trọng.
Để đo đcứng của 1 loại vật liệu người ta tiến hành ép 1 tải trọng xác định lên bề mặt của vật liệu cần đo thông qua mũi đâm làm bằng vật liệu cứng hầu như không chịu biến dạng dẻo (coi là cứng tuyệt đối như thép tôi cứng,hợp kim cứng, thậm chí cả kim cương), mũi đâm sẽ để lại trên bề mặt của vật liệu 1 vết lõm và dựa vào vết lõm người ta có thể xác định được độ cứng của vật liệu.
Có 2 loại đọ cứng : thô đại và tế vi. Nói chung đọ cứng thường dùng là độ cứng thô đại còn đọ cứng tế vi chỉ sử dụng trong nghiên cứu khoa học ( do thí nghiệm phức tạp : cần mũi đâm bé, tải trọng nhỏ để tác dụng vào từng pha , hạt, sử dụng cả kính hiển vi quang học)
Tất cả các loại độ cứng đều bắt đầu chữ H(hardness) còn kí hiệu theo sau để chỉ loại.
ví dụ HB :độ cứng Brinen, xác định độ cứng Brinen bằng cách ấn 1 tải trọng F xác định lên bề mặt phẳng của vật liệu qua viên bi cứng, sau khi thôi tác dụng,tải trọng để lại trên bề mặt vết lõm dạng chỏm cầu diện tích S. Thông qua việc xác định tỉ số của F với S người ta xác định được độ cứng Brinen (kg/mm2).
Còn độ cứng HR(rôcvel) và RV (Vicke) cũng được đo theo phương pháp gần giống như thế.
Mô đun đàn hồi E của vật liệu xác định thông qua thí nghiệm kéo, nén (khá đơn giản) .