khác biệt về sức bền vật liệu của Ống dày và Ống mỏng
Trích bên VUDSE:
Thao Anh My
Bạn nào phân biệt giúp mình sự khác nhau khi tính sức bền vật liệu của Ống dày và Ống mỏng nhỉ? Tại sao phải phân biệt ra hai loại này? Xin cảm ơn.
HO Vinh-Quynh
Đối với ống mỏng thì sự thay đổi ứng suất tiếp thông qua bề dày ống là nhỏ và radial stress có thể được bỏ qua. đối với với ống dày thì kể đến đầy đủ 3 thành phần ứng suất: longitudinal stress, radial stress và circumferential stress.
Minh Le
Ống mỏng thì tiết diện ống được đơn giản hoá bằng chu vi x bề dày, phương trình trở thành gọn nhẹ hơn nhiều
Ống dày thì nghiệm được giải từ pt Navier (dạng a+b/r2), đầy đủ và chính xác hơn nhưng implant phức tạp hơn vì phải tính iteration trong trường hợp multi coating
Hình so sánh mô phỏng trên Ansys, course trường Montreal
https://moodle.polymtl.ca/pluginfile.php/601144/mod_folder/content/0/Section 1_2019Aut_-MEC2405_rappel Mec 1420-PDF-No_video.pdf?forcedownload=1
Tran Hoang Son
Minh Le anh nghĩ là vẫn geometry ống mỏng đó mà chia 3-4 ra theo bề day rồi chạy chắc là vẫn ổn, lại nhìn được biến thiên T theo bề dày cho vui mắt. Làm kiểu kia anh sợ SV lại nhầm ống thành mỏng nghĩa là mô hình có 1 lớp element theo bề dầy
....
Thao Anh My
Cảm ơn mọi người. Điều này có nghĩa rằng: Theo sức bền vật liệu, cả ống dày và ống mỏng đều được coi là một lớp phần tử theo chiều dày, nhưng đối với ống dày thì sẽ xem xét thêm phần ứng suất tiếp (ứng suất cắt), còn ống mỏng thì chỉ xét ứng suất pháp như hình vẽ dưới đây phải không ạ?
Dinh Van Duc
Với ống mỏng, ứng xử tại mọi điểm giống như ứng xử của shell. Tại một điểm luôn có 2 thành phần ứng suất: hoop stress (tác nhân là internal pressure và hydrostatic pressure) và longitudinal stress (tác nhân là axial force, bending moment, poison effect và end cap force), shear force đối với offshore pipeline rất ít khi được tính đến.
Với ống dày thường hay được sử dụng cho piping (đường ống công nghệ), ngoài hai thành phần ứng suất kể trên, tại một điểm trên thành ống còn có thêm thành phần ứng suất hướng tâm, thành phần hướng kính này thường được tính theo tiêu chuẩn (tùy chỉ tiêu an toàn từng ngành nghề mà qui luật phân bố ứng suất hướng tâm có công thứ tính riêng). Đường ống công nghệ do sử dụng nhiều support nên thành phần ứng suất cắt thường hay xuất hiện.