Với một hệ thống khí nén, bao giờ cũng có máy nén khí, bình chứa và đường ống đưa khí nén đi sử dụng. Máy nén khí hầu như cung cấp một lượng khí nén không đổi, phù hợp với công suất máy nén. Nhưng nơi tiêu thụ lại không như vậy, lúc dùng nhiều, khi dùng ít, có lúc thì một loạt hộ tiêu thụ lấy khí nén cấp tập, lúc khác thì chẳng có chỗ nào cần. Để dung hòa vấn đề này, người ta phải dùng bình chứa khí nén, có tác dụng tích trữ khí nén lúc ít sử dụng để bù vào những khi dùng nhiều. Như vậy, có thể chọn máy nén khí có công suất hợp lý chạy đều đều chứ không chơi giải pháp máy nén lớn đáp ứng đủ với lưu lượng max của nơi sử dụng và khi không cần thì tắt máy. Sở dĩ áp dụng giải pháp này được, là do ta đã tận dụng đặc tính đàn hồi của không khí: ta có thể nén một thể tích không khí rất lớn vào trong một thể tích rất nhỏ, tất nhiên là áp suất sẽ tăng tương ứng.
Với hệ thống thủy lực, ta cũng gặp rắc rối tương tự, nhưng không làm như vậy được, dầu hoặc chất lỏng nói chung không chịu nén. Nếu ta có 1000 litr dầu ở áp suất bình thường thì khi nén nó đến 300at, thể tích này hầu như không đổi, vẫn là 1000 litr. Bởi thế, nếu ta làm bình chứa dầu ở đầu ra của bơm thì chẳng cải thiện được gì hết, kết quả là áp suất hệ thống bị dao động khủng khiếp. Để khắc phục điều này, có vài cách:
1. Chạy bơm liên tục và có van xả áp khi vượt giá trị cho phép. Giải pháp này hiển nhiên rất lãng phí năng lượng và mau hư hỏng hệ thống bơm, van.
2. Dùng ắc quy thủy lực để tự động tích nạp và giải phóng theo nhu cầu. Người ta học tập hệ thống khí nén, lắp thêm bình chứa và nạp vào trong bình chứa một lượng khí nén. Lượng khí nén này có tác dụng đàn hồi, giúp cho quá trình tự động tích và xả dầu. Dưới áp suất cao, khí nén rất dễ tan vào chất lỏng, để tránh điều này, người ta ngăn cách khí nén và dầu bằng 1 màng ngăn cao su. Như vậy, bơm dầu không cần chọn công suất lớn và không bị hoạt động gián đoạn thái quá.