Đúc mẫu tự hủy còn có các tên gọi khác là mẫu cháy hay mẫu tự thiêu hoặc mẫu tự tiêu. Năm 1958, H.F. Shroyer – người Mỹ phát minh ra kỹ thuật đúc kim loại dùng mẫu nhựa bọt xốp (foam) và được nhận bằng phát minh (số bằng phát minh USP 2830343), đầu tiên mẫu được gia công từ tấm vật liệu polystyrene (EPS), dùng hỗn hợp cát - đất sét làm khuôn đúc mỹ nghệ. Theo phương pháp này, làm khuôn xong không cần lấy mẫu, sau khi rót kim loại lỏng vào khuôn, mẫu sẽ tự bốc cháy lộ ra những không gian trống để điền đày kim loại lỏng; sau khi kim loại lỏng đông đặc vật đúc sẽ hình thành. Năm 1961, Công ty Grunzweig và Hartmann – nước Đức đã mua bản quyền này và có cải tiến để đến năm 1962 đưa vào ứng dụng trong thực tiễn sản xuất. Kỹ thuật dùng cát khô không chứa chất dính trong sản xuất vật đúc do H. Nellen (Đức) và T.R. Smith (Mỹ) đăng ký bản quyền năm 1964. Vì trong quá trình rót vào khuôn không chất dính thường xuyên có hiện tượng sụt lún (slump) nên năm 1967 A. Wittemoser – người Đức dùng các hạt sắt nhiễm từ làm vật liệu khuôn thay thế cho cát thạch anh và từ trường được dùng làm “chất dính” nên phương pháp này còn được gọi là “đúc trong khuôn từ”. Cũng vì máy làm khuôn từ khó tạo được các khuôn kích thước lớn , độ phức tạp cao nên năm 1971 Nagano – người Nhật phát minh ra phương pháp V (phương pháp đúc trong khuôn chân không). Ở đây cát khô không chứa chất dính được dùng làm vật liệu khuôn, dùng biện pháp hút chân không để cố định cát khuôn và tạo nên hốc khuôn phục vụ cho quá trình rót kim loại lỏng. Từ phương pháp này, ngày nay rất nhiều nơi dùng phương pháp hút chân không để cố định cát trong khuôn mẫu cháy, một mặt khắc phục được hiện tượng sụt lún cát trong quá trình rót, mặt khác có lợi cho việc phân huỷ mẫu nhựa xốp và loại trừ chúng. Trước năm 1980, nếu dùng công nghệ cát khô không chứa chất dính phải được sự đồng ý của công ty “Công nghệ khuôn hoàn chỉnh” (Full Mold Process, Inc) – Mỹ. Sau này, bản quyền trên không còn hiệu lực; do đó 20 năm gần đây kỹ thuật đúc trong khuôn mẫu cháy trên phạm vi toàn thế giới phát triển rất nhanh.
Đại để sự phát triển của kỹ thuật đúc trong khuôn mẫu cháy trải qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: Dùng nhựa bọt xốp làm mẫu và cát - đất sét làm khuôn, khuôn được chế tạo trên máy làm khuôn (ví dụ như máy ép, máy dằn).
- Giai đoạn hai: Dùng nhựa xốp làm mẫu, cát nhựa (vô cơ hoặc hữu cơ) làm khuôn.
- Giai đoạn ba: Dùng mẫu tự tiêu và các hạt vật liệu khuôn không chứa chất dính, đầm khuôn bằng phương pháp vật lý (chân không hoặc từ trường).
Đúc bằng mẫu cháy được viết tắt theo tiếng Anh là LFC (Lost Foam Casting) hoặc EFC (Expandable Pattern Casting), cũng còn gọi là đúc trong khuôn hoàn chỉnh (Full Mold Casting). Để giảm bớt những nhầm lẫn do ngôn ngữ gây nên, trong tài liệu này gọi phương pháp công nghệ là “đúc bằng mẫu tự tiêu” (LFC – Lost Foam Casting).
Phương pháp dùng các hạt từ làm vật liệu khuôn cho công nghệ đúc mẫu cháy hiện nay ít dùng, mà nay chủ yếu dùng cát khô với chất dính chủ yếu là đất sét, nhựa, nước thuỷ tinh,v.v…Phương pháp làm khuôn chân không (phương pháp V), tuy cũng là một trong các phương pháp tạo ra hốc khuôn nhưng không dùng mẫu cháy, do đó ở đây cũng không đề cập tới.