Ðề: Vấn đề về hạt làm sạch thép
Phun xử lý bề mặt kim loại dùng hạt mài
Tại sao phải phun xử lý bề mặt
Như chúng ta đã biết, một nhược điểm rất lớn của sắt thép là chúng dễ bị han gỉ. Để kéo dài tuổi thọ của chi tiết cũng như các trang thiết bị, người ta thường tiến hành sơn hoặc mạ bề mặt kim loại. Trước khi sơn mạ nhất thiết phải làm sạch kỹ bề mặt để sơn cũng như kim loại mạ dính kết tốt nhất với bề mặt. Một trong những phương pháp hiệu quả nhất chuẩn bị bề mặt là phương pháp “phun xử lý bề mặt dùng hạt mài”. Có một vài phương pháp khác xử lý sơ bộ bề mặt, ví dụ như: làm sạch bằng tay, phương pháp cơ học, làm sạch sử dụng chế phẩm hóa học…
Trước khi bắt đầu phun cần phải loại bỏ khỏi bề mặt kim loại những lớp han gỉ thô, cũng như những lớp dầu mỡ, đất cát. Sau khi phun xử lý phải lau sạch lớp bụi bám trên bề mặt. Để đánh giá độ sạch của bề mặt cần phải so sánh với trạng thái ban đầu của nó. Hiện nay trên thế giới tồn tại một số tiêu chuẩn quốc tế để đánh giá trạng thái ban đầu của bề mặt trước xử lý ( độ nhiễm bẩn ) và độ sạch của bề mặt sau xử lý. Một trong những tiêu chuẩn được sư dụng nhiêu nhât là chuẩn ISO 8501-1:1988.
Một số ký hiệu:
Độ nhiễm bẩn của bề mặt trước xử lý
A - Phần lớn bề mặt của thép bị bao phủ bởi lớp vảy thép cán, lớp han gỉ không có hoặc có với số lượng nhỏ.
B - Bề mặt thép bắt đầu han gỉ và bong thành lớp.
C - Bề mặt kim loại bị bao phủ hoàn toàn bởi lớp gỉ hoặc lớp gỉ có thể cạo ra được.
D - Bề mặt kim loại bị bao phủ hoàn toàn bởi lớp gỉ hoặc bằng mắt thường có thể nhìn thấy những vết thủng rỗ do ăn mòn.
Độ sạch của bề mặt sau xử lý
Sa1 – Làm sạch thường. Khi đó trên bề mặt kim loại sẽ không nhìn thấy dầu mỡ, chất bẩn, những lớp gỉ mới, phần sót lại của lớp mạ bảo vệ trước đó cũng như các dị vật khác.
Sa2 – Làm sạch kỹ. Khi đó trên bề mặt kim loại sẽ không nhìn thấy dầu mỡ, chất bẩn, đã loại bỏ được gần hết lớp gỉ, lớp sơn cũng như các dị vật khác. Những chất bẩn còn sót lại đều dính bám rất chặt vào bề mặt cần xử lý.
Sa2 ½ - Làm sạch rất kỹ. Khi đó trên bề mặt kim loại bằng mắt thường sẽ không nhìn thấy dầu mỡ, chất bẩn, đã loại bỏ được gần hết lớp gỉ, lớp sơn cũng như các dị vật khác. Tất cả những dấu tích chất bẩn còn sót lại chỉ nhìn thấy được dưới dạng những vết đôm hoặc vết vạch mờ.
Sa3 – Có thể quan sát bề mặt thép sạch bằng mắt thường. Khi đó trên bề mặt kim loại bằng mắt thường sẽ không nhìn thấy dầu mỡ, chất bẩn, đã loại bỏ được gần hết lớp gỉ, lớp sơn cũng như các dị vật khác. Bề mặt thu được phẳng, nhẵn, quan sát thấy rõ màu sắc kim loại.
Để thu được thong tin chính xác nhất về mức độ chuẩn bị bề mặt, các ký hiệu trên thường được viết liền nhau. Ví dụ: C Sa2. Điều đó có nghĩa là độ sạch Sa2 thu được sau khi xử lý bề mặt với độ nhiễm bẩn là C.
Còn có những mã để ký hiệu những phương pháp chuẩn bị bề mặt khác.
St – phương pháp cơ học hoặc làm sạch bằng tay.
FI – phương pháp nhiệt.
Ngoài chuẩn quốc tế ISO người ta còn sử dụng một số chuẩn của Mỹ. Ví dụ chuẩn SSPR và chuẩn NACE.
Hạt mài
Kích thước, khối lượng và hình dáng của hạt mài cũng như tác động của chúng lên bề mặt cần xử lý ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xử lý. Khi phun xử lý dùng các hạt mài thô có thể thu được những vết khắc sâu trên bề mặt. Đôi khi điều đó lam tăng khả năng kết dính sơn hoặc kim loại mạ lên bề mặt. Nhưng nó cũng dẫn tới việc phải tiêu tốn nhiều sơn hơn cũng như tăng thơi gian sơn để thu được bề mặt như yêu cầu. So với phương pháp phun xử lý dùng hạt mài thô, dùng hạt mài nhỏ sẽ tăng tốc độ làm sạch, nâng cao chất lượng bề mặt sau xử lý, giảm hao tổn nguyên liệu khi sơn. Nhưng khi bề mặt bị nhiễm bẩn hoặc bị ăn mòn nặng dùng hạt mài nhỏ rất khó có thể làm sạch bề mặt. Vì khi đó sẽ cần rất nhiều thời gian cũng như khối lượng hạt mài. Trong nhưng trường hợp này người ta dùng hạt mài thô. Để tận dụng những uư điểm, khắc phục những những nhược điểm của hạt mài thô cũng như hạt mài nhỏ, trong nhiều trường hợp ngươi ta sử dụng hỗn hợp 2 loại hạt mài trên với mục đích thu đươc bề mặt kim loại với chất lượng tốt nhất. Như vậy nói tóm lại, việc lựa chọn hạt mài phụ thuộc vào trạng thái ban đầu của bề mặt ( độ nhiễm bẩn ), độ sạch cần thu được sau xử lý.