Author
MIG 1
MiG-1 được thiết kế nhằm đáp ứng những đòi hỏi về máy bay tiêm kích một động cơ từ không quân Xô-viết tháng 1-1939. Lúc đầu bản thiết kế được mang tên là I-200, được phòng thiết kế Polikarpov xây dựng. Công việc bắt đầu vào tháng 6-1939, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công trình sư Nikolai Nikolaevich Polikarpov và phụ tá là M. Tetivikin. Bản thân Polikarpov đang cải tiến thiết kế mẫu máy bay I-180 vào thời gian đó, nhưng khi động cơ có sức mạnh lớn hơn là Mikulin AM-37 được đưa vào sử dụng, ông đã sử dụng chúng vào mẫu máy bay của mình. Dự án MiG-1 được bắt đầu khi Polikarpov được chọn để sản xuất một mẫu máy bay nhỏ cơ động có khả năng bảo vệ các nhà máy điện, bằng ý tưởng đó đã dẫn đến phương châm sản xuất một loại máy bay giảm tối đa trọng lượng. Theo lý thuyết, chiếc máy bay có thể đạt được vận tốc là 670 km/h (417 mph). Vào tháng 8-1939, Polikarpov cùng N. Andrianov lãnh đạo thiết kế. Tuy nhiên vào thời giân đó, Polikarpov không dành được sự ủng hộ của Joseph Stalin và đã dẫn đến kết quả là khi Polikarpov tới Đức dự hội thảo hàng không, nhà cầm quyền Xô-viết đã giải tán đội thiết kế của ông, và xây dựng bộ phận thiết kế dựa trên thí nghiệm mới (Experimental Construction Section - OKO), được lãnh đạo bởi Artem Mikoyan và Mikhail Gurevich, bộ phận thiết kế cũ của Polikarpov cũng sát nhập vào cơ quan này tháng 4-1940. Bản thiết kế I-200 được trao lại cho Mikoyan và Gurevich.
Thành quả là một loại máy bay quy ước đã bay theo lịch trình vào ngày 5-4-1940, mặc dù có nhiệm vụ là bảo vệ các nhà máy điện nhưng nhiệm vụ đó đã không được sẵn sàng thực hiện trong thời gian đó. Thay vào đó, một chiếc máy bay chiến đấu mới với động nhỏ hơn Mikulin AM-35, đã kém kỉ lục bay cũ trong ngành hàng không Xô-viết hơn 40 km/h (25 mph) so với kỉ lục cũ. Tuy nhiên nó lại đem đến một khả năng bay mới mẻ trong không quân bởi động cơ của nó. I-200 đã được đưa ngay vào sản xuất vào ngày 31-5-1940. Trong sự ganh đua với các thiết kế khác là I-26 (Yak-1) và I-301 (LaGG-3), I-200 đã hoàn thành thành công thử nghiệm trong tháng 8. Cho đến hết năm, I-200 đã được cung cấp cho cac phi đội bay thử nghiệm, trong các cuộc bay thử nghiệm các chuyên gia đã phát hiện ra đôi cánh quá dài so với thân đã gây ra những vấn đề về điều khiển bằng tay, bao gồm cả hiện tượng chao đảo và xoay tròn, và sự thiếu ổn định trong việc định hướng.
Bản báo cáo về những vấn đề liên quan đến sự điều khiển đã được gửi cho Mikoyan và Gurevich, họ đã bắt tay vào tìm cách khắc phục những vấn đề, nhiều thiết kế đã được thay đổi cho phù hợp. Họ đã tăng thêm khả năng phạm vi hoạt động bằng thùng xăng phụ. Sự cải tiến máy bay kéo dài cho đến 29-10-1940. Theo bản thiết kế cải tiến mới, từ ngày 9 tháng 12-1940, 100 chiếc I-200 sẽ được gọi lại là MiG-1 (bắt đầu bằng chữ cái đầu của Mikoyan và Gurevich), bản cải tiến thêm mang tên MiG-3.
Thông số kỹ thuật
Phi đoàn: 1
Dài: 8,16 m (26 ft 9 in)
Chiều dài cánh: 10,20 m (33 ft 5 in)
Cao: 2,62 m (8 ft 7 in)
Diện tích cánh: 17,5 m² (188 ft²)
Loại cánh: Clark YH
Trọng lượng rỗng: 2.602 kg (5.736 lb)
Trọng lượng cất cánh: 3.099 kg (6.832 lb)
Trọng lượng mang tối đa: 3.319 kg (7.317 lb)
Động cơ: 1× Mikulin AM-35A, công suất 1.007 kW (1.350 hp)
Đặc điểm bay
Vận tốc tối đa: 657 km/h (410 mph)
Tầm bay: 580 km (362 mi)
Trần bay: 12.000 m (39.400 ft)
Vận tốc bay lên: 16.8 m/s (3,306 ft/min)
Lực nâng của cánh: 177 kg/m² (36 lb/ft²)
Lực nâng/khối lượng: 0,32 kW/kg (0,20 hp/lb)
Vũ khí
1 x súng máy 12,7 mm BS
2 x súng máy 7,62 mm ShKAS
MIG 3
Thiết kế và phát triển
MiG-3DD (I-231)Mikoyan và Gurevich đã có một số thay đổi lớn trong thiết kế của MiG-1 theo 2 hướng dùng để đánh chặn và tìm kiếm trên chiến trường sau khi đã nghiên cứu tại đường hầm tạo gió thuộc Trung tâm hàng không và Viện động lực học chất lưu (TsAGI). Những cải tiến này được trình bày tại một hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước.
Những thay đổi bao gồm:
Dịch động cơ lên phía trước 4 inches (100mm) để tăng sự ổn định.
Tăng thêm góc nhị diện ở phía ngoài để ổn định hơn.
Đưa vào sử dụng bộ tản nhiệt nước (OP-310), cho phép thêm vào 55 imp. gallon (250L) nhiên liệu.
Thêm thùng dầu phụ dưới động cơ.
Bộ phận thải khí từ động cơ làm giảm khả năng trúng đạn trong trường hợp bị quân địch bắn.
Thêm vào 8 mm giáp đằng sau phi công (sau này là 9 mm cho các bản cải tiến tiếp theo).
Bơm tăng khả năng nạp không khí ở khe lấy.
Tăng sức mạnh của trục bánh.
Tăng kích thước của bánh lên 25.5"x 7.87" (650mm x 200mm).
Cải thiện mái che, tận dụng cho phi công nhìn về phía sau và cho phép đặt thêm đằng sau phi công máy vô tuyến RSI-1 (sau này cải tiến thành RSI-4).
Thiết kế lại dụng cụ panen.
Cải tiến giá lắp súng PBP-1 thành PBP-1A.
Tăng thêm cơ số đạn cho súng ShKAS lên 750.
Gia tăng độ chắc chắn của giá đỡ dưới bụng máy bay, thêm vào khối lượng bom là 485lbs 220 kg), thùng phun thuốc hoặc 8 tên lửa không điều khiển RS-82.
Chiếc máy bay đầu tiên được ứng dụng các cải tiến là I-200 số 4, đây là mẫu thử nghiệm của I-200, sau này được đổi tên thành MiG-1. Nó bay lần đầu tiên vào cuối tháng 10-1940. Theo sau những thành công đầu tiên từ chuyến bay là thử thách trong cuộc thi ứng tuyển cho VVS (Voyenno-voz-dushnyye seely - Military Air Forces - Lực lượng không quân).
Trong suốt quá trình thử nghiệm, NKAP (Narodnyy komissariat aviatsionnoy promyshlennosti - People's Ministry of the Aircraft Industry - Bộ công nghiệp hàng không nhân dân) đã công bố mẫu MiG-3 sẽ được chọn để sản xuất, và tổng cộng đã có 3,600 chiếc được sản xuất trong năm 1941.
Lịch sử hoạt động
Sau khi MiG-3 được đưa ra bảo vệ tại hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước, nó được đưa vào sản xuất ngày 20-12-1940. Từ tháng 3-1941, mỗi ngày lại có 10 chiếc được sản xuất. Quá trình sản xuất không thể diễn ra chậm trễ trước những nhu cầu trang bị để có thể sánh ngang với loại máy bay trinh sát Junkers Ju 86 của Đức khi sự thù địch giữa Đức và Liên bang Xô viết đang diễn ra một cánh gay gắt.
Trước chiến dịch Barbarossa của quân Đức, hơn 1,200 chiếc MiG-3 đã được cung cấp tới các đơn vị.
Trong quá trình thử nghiệm máy bay vẫn còn những nhược điểm của MiG-1 như khối lượng lớn và mức tiêu thụ nhiên liệu quá lớn, Mikoyan và Gurevich đã hứa sẽ khắc phục những nhược điểm này. Mikoyan và Gurevich đã sắp xếp hơn 2 chuyến bay giữa Leningrad và Moscow để chứng tỏ MiG-3 có khả năng bay xa 1000 km.
Tuy nhiên điều này đã không được khắc phục, MiG-3 vẫn gặp các vấn đề trong suốt quá trình triển khai thử nghiệm. Vài mẫu MiG-3 được sản xuất đã không thể đáp ứng độ cao do áp lực của nhiên liệu. Các phi công đã cố gắng điều khiển những chiếc MiG-3 gặp vấn đề. Ngay sau đó một loại nhiên liệu mới được đưa vào sử dụng đã khắc phục những vấn đề đó, việc điều khiển huấn luyện dễ dàng hơn đã giúp các phi công dần quen với MiG-3.
Trong 2 năm sau đó, MiG-3 đã được thêm một số vũ khí như súng máy gắn trên và pháo ShVAK.
MiG-3Do diều kiện chiến tranh với quân Đức, MiG-3 đã phải đóng vai trò là máy bay cường kích (tấn công mặt đất), nhưng nó nhanh chóng bộc lộ nhiều yếu kém, và nó mất dần vai trò. Sự quên lãng của MiG-3 bị gián đoạn khi động cơ AM-35 được thay thế bởi AM-38, vốn được trang bị cho Ilyushin Il-2 Shturmovik loại máy bay nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ II.
Trong suốt chiến tranh, Mikoyan và Gurevich vẫn tiếp tục phát triển MiG-3 để tăng thêm trần bay, những mẫu cải tiến với sức mạnh lớn hơn được gọi với tên từ I-220 đến I-225 (Điểm khỏi đầu cho một số nhầm lẫn khi tên gọi MiG-7 được dùng để chỉ những mẫu máy bay cải tiến của MiG-3). Cuộc chiến trên không với Đức đã chứng minh rằng thời hoàng kim của động cơ pit-tông đã qua, và không một mẫu sản xuất nào có thể làm lại lịch sử như nó.
Một số mẫu thiết kế đã thử lắp động cơ mới vào, với động cơ mới là một thiết kế sáng tạo AM-37. Mẫu thử nghiệm này được gọi là MiG-7, nhưng với sự dừng sản xuất động cơ AM-37, đề án đã phải dừng lại. Mùa xuân năm 1942, những chiếc MiG-3 được bị rút khỏi các phi đội phòng thủ ở chiến trường. Trong cố gắng lắp máy mới lần cuối với động cơ đốt trong Shvetsov ASh-82 để giúp cho MiG-3 lấy lại niềm tin, những động cơ tương tự đã được sử dụng để tạo ra mẫu máy bay Lavochkin La-5 từ LaGG-3. Mẫu đầu tiên được gọi với tên I-210 và I-211, những kết quả thử nghiệm đã thành công đủ để những mẫu cải tiến sau này hiệu quả hơn với tên gọi MiG-9. Tuy nhiên, mẫu La-5 đã được sản xuất và mẫu I-211 không được hoàn thiện hơn để đưa vào phục vụ không quân. Một số chiếc MiG-9 được thử nghiệm với động cơ Pratt & Whitney R-2800-63 của Hoa Kỳ.
2 mẫu thử nghiệm cuối cùng là I-230 và I-231, được phát triển trên nguồn gốc của MiG-3, được sử dụng loại động cơ lớn hơn, nhưng chúng không được không quân Xô viết để ý đến.
Đặc điểm kỹ thuật (Mikoyan-Gurevich MiG-3)
Phi đoàn: 1 người
Dài: 8.25 m (27 ft 1 in)
Chiều dài cánh: 10,20 m (33 ft 6 in)
Chiều cao: 3,50 m (11 ft 6 in)
Diện tích cánh: 17,44 m² (188 ft²)
Loại cánh: Clark YH
Trọng lượng rỗng: 2.699 kg (5.965 lbs)
Trọng lượng cất cánh: 3.355 kg (7.415 lbs)
Động cơ: 1× Mikulin AM-35A bộ làm mát bằng không khí V-12, công suất 993 kW (1,350 HP)
Đặc điểm bay
Vận tốc tối đa: 640 KMH (397 MPH)
Phạm vi hoạt động: 820 km (510 miles)
Trần bay: 11.500 m (37.700 ft)
Tốc độ lên cao: 14,7 m/s (2.890 ft/min)
Lực nâng của cánh: 192 kg/m² (39,4 lb/ft²)
Lực đẩy/khối lượng: 0,30 kW/kg (0,18 hp/lb)
Vũ khí
1x súng máy 12,7 mm UBS
2x súng máy 7,62 mm ShKAS
2x 100 kg (220 lb) bom, 2 khe gắn bom hoặc gắn 6 quả tên lửa không điều khiển RS-82 82 mm
MiG-1 được thiết kế nhằm đáp ứng những đòi hỏi về máy bay tiêm kích một động cơ từ không quân Xô-viết tháng 1-1939. Lúc đầu bản thiết kế được mang tên là I-200, được phòng thiết kế Polikarpov xây dựng. Công việc bắt đầu vào tháng 6-1939, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công trình sư Nikolai Nikolaevich Polikarpov và phụ tá là M. Tetivikin. Bản thân Polikarpov đang cải tiến thiết kế mẫu máy bay I-180 vào thời gian đó, nhưng khi động cơ có sức mạnh lớn hơn là Mikulin AM-37 được đưa vào sử dụng, ông đã sử dụng chúng vào mẫu máy bay của mình. Dự án MiG-1 được bắt đầu khi Polikarpov được chọn để sản xuất một mẫu máy bay nhỏ cơ động có khả năng bảo vệ các nhà máy điện, bằng ý tưởng đó đã dẫn đến phương châm sản xuất một loại máy bay giảm tối đa trọng lượng. Theo lý thuyết, chiếc máy bay có thể đạt được vận tốc là 670 km/h (417 mph). Vào tháng 8-1939, Polikarpov cùng N. Andrianov lãnh đạo thiết kế. Tuy nhiên vào thời giân đó, Polikarpov không dành được sự ủng hộ của Joseph Stalin và đã dẫn đến kết quả là khi Polikarpov tới Đức dự hội thảo hàng không, nhà cầm quyền Xô-viết đã giải tán đội thiết kế của ông, và xây dựng bộ phận thiết kế dựa trên thí nghiệm mới (Experimental Construction Section - OKO), được lãnh đạo bởi Artem Mikoyan và Mikhail Gurevich, bộ phận thiết kế cũ của Polikarpov cũng sát nhập vào cơ quan này tháng 4-1940. Bản thiết kế I-200 được trao lại cho Mikoyan và Gurevich.
Thành quả là một loại máy bay quy ước đã bay theo lịch trình vào ngày 5-4-1940, mặc dù có nhiệm vụ là bảo vệ các nhà máy điện nhưng nhiệm vụ đó đã không được sẵn sàng thực hiện trong thời gian đó. Thay vào đó, một chiếc máy bay chiến đấu mới với động nhỏ hơn Mikulin AM-35, đã kém kỉ lục bay cũ trong ngành hàng không Xô-viết hơn 40 km/h (25 mph) so với kỉ lục cũ. Tuy nhiên nó lại đem đến một khả năng bay mới mẻ trong không quân bởi động cơ của nó. I-200 đã được đưa ngay vào sản xuất vào ngày 31-5-1940. Trong sự ganh đua với các thiết kế khác là I-26 (Yak-1) và I-301 (LaGG-3), I-200 đã hoàn thành thành công thử nghiệm trong tháng 8. Cho đến hết năm, I-200 đã được cung cấp cho cac phi đội bay thử nghiệm, trong các cuộc bay thử nghiệm các chuyên gia đã phát hiện ra đôi cánh quá dài so với thân đã gây ra những vấn đề về điều khiển bằng tay, bao gồm cả hiện tượng chao đảo và xoay tròn, và sự thiếu ổn định trong việc định hướng.
Bản báo cáo về những vấn đề liên quan đến sự điều khiển đã được gửi cho Mikoyan và Gurevich, họ đã bắt tay vào tìm cách khắc phục những vấn đề, nhiều thiết kế đã được thay đổi cho phù hợp. Họ đã tăng thêm khả năng phạm vi hoạt động bằng thùng xăng phụ. Sự cải tiến máy bay kéo dài cho đến 29-10-1940. Theo bản thiết kế cải tiến mới, từ ngày 9 tháng 12-1940, 100 chiếc I-200 sẽ được gọi lại là MiG-1 (bắt đầu bằng chữ cái đầu của Mikoyan và Gurevich), bản cải tiến thêm mang tên MiG-3.
Thông số kỹ thuật
Phi đoàn: 1
Dài: 8,16 m (26 ft 9 in)
Chiều dài cánh: 10,20 m (33 ft 5 in)
Cao: 2,62 m (8 ft 7 in)
Diện tích cánh: 17,5 m² (188 ft²)
Loại cánh: Clark YH
Trọng lượng rỗng: 2.602 kg (5.736 lb)
Trọng lượng cất cánh: 3.099 kg (6.832 lb)
Trọng lượng mang tối đa: 3.319 kg (7.317 lb)
Động cơ: 1× Mikulin AM-35A, công suất 1.007 kW (1.350 hp)
Đặc điểm bay
Vận tốc tối đa: 657 km/h (410 mph)
Tầm bay: 580 km (362 mi)
Trần bay: 12.000 m (39.400 ft)
Vận tốc bay lên: 16.8 m/s (3,306 ft/min)
Lực nâng của cánh: 177 kg/m² (36 lb/ft²)
Lực nâng/khối lượng: 0,32 kW/kg (0,20 hp/lb)
Vũ khí
1 x súng máy 12,7 mm BS
2 x súng máy 7,62 mm ShKAS
MIG 3
Thiết kế và phát triển
MiG-3DD (I-231)Mikoyan và Gurevich đã có một số thay đổi lớn trong thiết kế của MiG-1 theo 2 hướng dùng để đánh chặn và tìm kiếm trên chiến trường sau khi đã nghiên cứu tại đường hầm tạo gió thuộc Trung tâm hàng không và Viện động lực học chất lưu (TsAGI). Những cải tiến này được trình bày tại một hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước.
Những thay đổi bao gồm:
Dịch động cơ lên phía trước 4 inches (100mm) để tăng sự ổn định.
Tăng thêm góc nhị diện ở phía ngoài để ổn định hơn.
Đưa vào sử dụng bộ tản nhiệt nước (OP-310), cho phép thêm vào 55 imp. gallon (250L) nhiên liệu.
Thêm thùng dầu phụ dưới động cơ.
Bộ phận thải khí từ động cơ làm giảm khả năng trúng đạn trong trường hợp bị quân địch bắn.
Thêm vào 8 mm giáp đằng sau phi công (sau này là 9 mm cho các bản cải tiến tiếp theo).
Bơm tăng khả năng nạp không khí ở khe lấy.
Tăng sức mạnh của trục bánh.
Tăng kích thước của bánh lên 25.5"x 7.87" (650mm x 200mm).
Cải thiện mái che, tận dụng cho phi công nhìn về phía sau và cho phép đặt thêm đằng sau phi công máy vô tuyến RSI-1 (sau này cải tiến thành RSI-4).
Thiết kế lại dụng cụ panen.
Cải tiến giá lắp súng PBP-1 thành PBP-1A.
Tăng thêm cơ số đạn cho súng ShKAS lên 750.
Gia tăng độ chắc chắn của giá đỡ dưới bụng máy bay, thêm vào khối lượng bom là 485lbs 220 kg), thùng phun thuốc hoặc 8 tên lửa không điều khiển RS-82.
Chiếc máy bay đầu tiên được ứng dụng các cải tiến là I-200 số 4, đây là mẫu thử nghiệm của I-200, sau này được đổi tên thành MiG-1. Nó bay lần đầu tiên vào cuối tháng 10-1940. Theo sau những thành công đầu tiên từ chuyến bay là thử thách trong cuộc thi ứng tuyển cho VVS (Voyenno-voz-dushnyye seely - Military Air Forces - Lực lượng không quân).
Trong suốt quá trình thử nghiệm, NKAP (Narodnyy komissariat aviatsionnoy promyshlennosti - People's Ministry of the Aircraft Industry - Bộ công nghiệp hàng không nhân dân) đã công bố mẫu MiG-3 sẽ được chọn để sản xuất, và tổng cộng đã có 3,600 chiếc được sản xuất trong năm 1941.
Lịch sử hoạt động
Sau khi MiG-3 được đưa ra bảo vệ tại hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước, nó được đưa vào sản xuất ngày 20-12-1940. Từ tháng 3-1941, mỗi ngày lại có 10 chiếc được sản xuất. Quá trình sản xuất không thể diễn ra chậm trễ trước những nhu cầu trang bị để có thể sánh ngang với loại máy bay trinh sát Junkers Ju 86 của Đức khi sự thù địch giữa Đức và Liên bang Xô viết đang diễn ra một cánh gay gắt.
Trước chiến dịch Barbarossa của quân Đức, hơn 1,200 chiếc MiG-3 đã được cung cấp tới các đơn vị.
Trong quá trình thử nghiệm máy bay vẫn còn những nhược điểm của MiG-1 như khối lượng lớn và mức tiêu thụ nhiên liệu quá lớn, Mikoyan và Gurevich đã hứa sẽ khắc phục những nhược điểm này. Mikoyan và Gurevich đã sắp xếp hơn 2 chuyến bay giữa Leningrad và Moscow để chứng tỏ MiG-3 có khả năng bay xa 1000 km.
Tuy nhiên điều này đã không được khắc phục, MiG-3 vẫn gặp các vấn đề trong suốt quá trình triển khai thử nghiệm. Vài mẫu MiG-3 được sản xuất đã không thể đáp ứng độ cao do áp lực của nhiên liệu. Các phi công đã cố gắng điều khiển những chiếc MiG-3 gặp vấn đề. Ngay sau đó một loại nhiên liệu mới được đưa vào sử dụng đã khắc phục những vấn đề đó, việc điều khiển huấn luyện dễ dàng hơn đã giúp các phi công dần quen với MiG-3.
Trong 2 năm sau đó, MiG-3 đã được thêm một số vũ khí như súng máy gắn trên và pháo ShVAK.
MiG-3Do diều kiện chiến tranh với quân Đức, MiG-3 đã phải đóng vai trò là máy bay cường kích (tấn công mặt đất), nhưng nó nhanh chóng bộc lộ nhiều yếu kém, và nó mất dần vai trò. Sự quên lãng của MiG-3 bị gián đoạn khi động cơ AM-35 được thay thế bởi AM-38, vốn được trang bị cho Ilyushin Il-2 Shturmovik loại máy bay nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ II.
Trong suốt chiến tranh, Mikoyan và Gurevich vẫn tiếp tục phát triển MiG-3 để tăng thêm trần bay, những mẫu cải tiến với sức mạnh lớn hơn được gọi với tên từ I-220 đến I-225 (Điểm khỏi đầu cho một số nhầm lẫn khi tên gọi MiG-7 được dùng để chỉ những mẫu máy bay cải tiến của MiG-3). Cuộc chiến trên không với Đức đã chứng minh rằng thời hoàng kim của động cơ pit-tông đã qua, và không một mẫu sản xuất nào có thể làm lại lịch sử như nó.
Một số mẫu thiết kế đã thử lắp động cơ mới vào, với động cơ mới là một thiết kế sáng tạo AM-37. Mẫu thử nghiệm này được gọi là MiG-7, nhưng với sự dừng sản xuất động cơ AM-37, đề án đã phải dừng lại. Mùa xuân năm 1942, những chiếc MiG-3 được bị rút khỏi các phi đội phòng thủ ở chiến trường. Trong cố gắng lắp máy mới lần cuối với động cơ đốt trong Shvetsov ASh-82 để giúp cho MiG-3 lấy lại niềm tin, những động cơ tương tự đã được sử dụng để tạo ra mẫu máy bay Lavochkin La-5 từ LaGG-3. Mẫu đầu tiên được gọi với tên I-210 và I-211, những kết quả thử nghiệm đã thành công đủ để những mẫu cải tiến sau này hiệu quả hơn với tên gọi MiG-9. Tuy nhiên, mẫu La-5 đã được sản xuất và mẫu I-211 không được hoàn thiện hơn để đưa vào phục vụ không quân. Một số chiếc MiG-9 được thử nghiệm với động cơ Pratt & Whitney R-2800-63 của Hoa Kỳ.
2 mẫu thử nghiệm cuối cùng là I-230 và I-231, được phát triển trên nguồn gốc của MiG-3, được sử dụng loại động cơ lớn hơn, nhưng chúng không được không quân Xô viết để ý đến.
Đặc điểm kỹ thuật (Mikoyan-Gurevich MiG-3)
Phi đoàn: 1 người
Dài: 8.25 m (27 ft 1 in)
Chiều dài cánh: 10,20 m (33 ft 6 in)
Chiều cao: 3,50 m (11 ft 6 in)
Diện tích cánh: 17,44 m² (188 ft²)
Loại cánh: Clark YH
Trọng lượng rỗng: 2.699 kg (5.965 lbs)
Trọng lượng cất cánh: 3.355 kg (7.415 lbs)
Động cơ: 1× Mikulin AM-35A bộ làm mát bằng không khí V-12, công suất 993 kW (1,350 HP)
Đặc điểm bay
Vận tốc tối đa: 640 KMH (397 MPH)
Phạm vi hoạt động: 820 km (510 miles)
Trần bay: 11.500 m (37.700 ft)
Tốc độ lên cao: 14,7 m/s (2.890 ft/min)
Lực nâng của cánh: 192 kg/m² (39,4 lb/ft²)
Lực đẩy/khối lượng: 0,30 kW/kg (0,18 hp/lb)
Vũ khí
1x súng máy 12,7 mm UBS
2x súng máy 7,62 mm ShKAS
2x 100 kg (220 lb) bom, 2 khe gắn bom hoặc gắn 6 quả tên lửa không điều khiển RS-82 82 mm
Last edited: