Thế giới các loại tàu-v2.0 :Tàu chiến của Hải Quân Việt Nam-trg2

mori

Member
Author
Nay mori lập mục này với mong muốn được mở rộng tầm mắt biết được các loại tàu thuyền trên thế giới.Mong sự đóng góp nhiệt tình của các bác.
Mỗi hình ảnh con tàu các bác đưa lên xin các bác cho biết tên và chức năng của nó nhé ạ. Nếu được một số thông số kỹ thuật thì hay quá ạ

Em mở màn với mấy loại tàu ngầm cho hoành tráng nhé ạ:


Tầu ngầm hiện chia thành các loại như sau :
- Tầu ngầm loại tấn công chiến lược mang tên lửa đạn đạo hạt nhân.
Đây là loại có kích thước lớn nhất, nguy hiểm với các quốc gia (chứ không nguy hiểm lắm với các tàu chiến). Nó có thể mang hàng trăm đầu đạn hạt nhân các loại áp sát lãnh hải, phóng tên lửa tấn công san bằng hàng chục thành phố, khu công nghiệp, quân sự... Hiện chỉ các cường quốc mới có loại tàu này.
- Tầu ngầm tấn công mang tên lửa hành trình hoặc tên lửa có điều khiển.
Loại này tuỳ theo chiến lược của các quốc gia mà mang các tên lửa hành trìng hoặc tên lửa có điều khiển. Chẳng hạn với Mỹ thì mang các tên lửa hành trình để tấn công đất liền còn với Nga thi mang các tên lửa có điều khiển hoặc bán điều khiển để diệt các chiến hạm nổi hoặc tấn công nhóm tầu sân bay.
- Tầu ngầm diệt ngầm hoặc hạm : Gồm 2 loại chạy động cơ nguyên tử và không nguyên tử như diezen hoặc diezen+pin năng lượng hữu cơ.
Đây là loại chủ lực trên đại dương, tích hợp công nghệ cao, hoả lực mạng, độ ồn thấp càng tốt. passive sona có độ nhậy cao và định hướng tốt. Được sử dụng để tiêu diệt các tầu ngầm đối phương hoặc các tầu nổi.
- Tầu ngầm thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt như trinh sát, cứu hộ, đổ bộ gián điệp...
Hiện nay trên thế giới chỉ có 5 nước có tầu ngầm tấn công chiến lược mang tên lửa đạn đạo : Mỹ , Nga, Anh , Pháp và TQ.
Tầu ngầm tấn công mang tên lửa hành trình hoặc tên lửa có điều khiển thì chỉ có Mỹ , Nga, còn Anh thì đưa ra giải pháp là kết hợp diệt ngầm với loại mang tên lửa hành trình.
Sau đây sẽ lần lượt giới thiệu các loại tầu ngầm :
I .Tàu ngầm tấn công chiến lược mang tên lửa đạn đạo.
Đây thực sự là thứ vũ khí giống như nắm đấm dứ vào mặt nhau của các cường quốc và có thể đánh nock out nhau. Lẩn trốn dưới biển khơi, di động, khó tìm, có thể áp sát đối phương, mang trong bụng hàng đống đầu đạn hạt nhân sẵn sàng san bằng hàng trăm thành phố.
Các loại tầu này hiện nay bao gồm : Mỹ -tầu ngầm tấn công loại Ohio ; Nga-loại Borey, Akula, Delta3,4; Anh-loại Vanguard; Pháp-loại Inflexible, Triomphant; TQ-loại Xia.
1.Tầu ngầm tiến công loại Ohio
Được thiết kế thay thế loại Benjanin Flankin, Ohio có kích thước lớn hơn mang nhiều tên lửa hơn và các loại tên lửa đạn đạo loại mới Trident I, II.(Chính vì thế nó còn có tên gọi là loại tầu ngầm Trident). Thiết kế với tính năng chạy im lặng ở tốc độ cao, khoang tầu lớn chưa nhiều đạn dược và hậu cần cho phép tầu có thể hành trình lâu hơn, cự li xa hơn.
Dài 170m, động cơ gồm 1 lò phản ứng hạt nhân, tầm lặn khoảng 250m. Hệ thống Sona trang bị cả Active và Passive (Bow and Towed). 163 thuỷ thuỷ và sĩ quan.
Vũ khí bao gồm 4 ống phóng MK48 ngư lôi.
Tên lửa trang bị gồm 24 tên lửa đạn đạo tầm xa trident I (C4), trident II (D5). Mỗi tên lửa trindent có 3 tầng phóng với cự ly khoảng 7300 Km. Trident I có 6 đầu đạn hạt nhân, Trident II có 12 đầu đạn hạt nhân mỗi đầu đạn có sức nổ gấp 9 lần quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima. Như vậy mỗi tầu ngầm Ohio mang 288 đầu đạn hạt nhân đủ sức san bằng 288 thành phố cỡ Namkinh-TQ với độ sai lệch là 150mét. (nên nhớ trong bán kính 1000m thì bạn cũng bốc hơi rồi).



Các tầu ngầm Ohio hiện mang tổng số 50% số đầu đạn hạt nhân chiến lược của Mỹ.




Tên lửa Trident II sát thủ đối với các thành phố

.Tàu ngầm tấn công tên lửa đạn đạo loại Borey của Nga (tên gọi khác :Yuriy Dolgorukiy )
Đây là loại tầu ngầm loại mới nhất của Nga, sẽ hạ thuỷ trong năm nay. Còn nhiều bí mật và chưa công bố. Theo một số nguồn tin thì nó có độ ồn thấp. Dài 170m
mang khoảng 20 tên lửa đạn đạo Bulava tầm bắn 10000Km, mỗi tên lửa mang 4 đầu đạn sức công phá gấp 19 quả bom nguyên tử ném ở Hioshima, độ chính xác đạt dưới 350mét. (thua Mỹ-nếu trang bị hệ thống GPS thì có thể chính xác hơn)
Ảnh hiện chưa tìm được, chỉ có mô hình sau:



3.Tàu ngầm tấn công tên lửa đạn đạo loại Akula của Nga (tên gọi khác :Typoon)
Thiết kế thật vĩ đại và là tầu ngầm to nhất thế giới. Akula được thiết kế chuyên hoạt động vùng Bắc cực năm sâu dưới lớp băng cho phép tránh khỏi các con mắt quan sát của Vệ tinh. Với mục đích đó , nó đuợc thiết kế rất rộng để có thể hoạt động dài ngày - tới 120 ngày. Hệ thống Sona gồm cả Active lẫn Passive điều khiển 22 ngư lôi 533mm và tên lửa diệt ngầm phóng từ ống 650mm.
Động cơ gồm 2 lò phản ứng hạt nhân, thuỷ thủ đoàn 160 người, độ lặn sâu 400m
Dài 172m nhưng rộng 23m, mang 20 tên lửa R-39 (tên khác RSM-52, SS-N-20) với 3 tầng đẩy chất rắn cho phép cự ly đạt khoảng 8300 Km với độ chính xác 500m.(thiếu hệ thống định vị chính xác nhưng với độ sai lệch này thì cũng chấp nhận được). Mỗi tên lửa mang 10 đầu đạn hạt nhân sức công phá gấp 8 "hiroshima".



Tiếp: Buồng điều khiển hơi lạc hậu



Lưu ý tà Typoon chỉ thiết kế riêng để hoạt động ở Bắc băng dương : lặn sâu dưới các lớp băng và có thể dùng mũi để phá các lớp băng mỏng phóng tên lửa hạt nhân.
4.Tầu ngầm tấn công tên lửa đạn đạo loại Denfin (Delta -IV) của Nga.
Thiết kế nâng cấp trên cơ sở loại tầu ngầm Denfin đời truớc. Một số kỹ thuật mới như về vỏ tầu chống chống phản xạ âm và chống lọt âm thanh ra ngoài. Mang 2 lò phản ứng nguyên tử, thuỷ thủ 135 người, thời gian hoạt động 80 ngày. Hệ thống Sona có cả active lẫn passive (towed array).
Dài 167 m, 4 ống phóng ngư lôi 533mm, lặn sâu 400m. Vũ khí cơ bản là 16 tên lửa đạn đạo R-29. Tên lửa được thiết kế mới loại R-29 (RSM-54) 3 tầng đẩy chất lỏng tầm đánh 8000km với 4 đầu đạn hạt nhân mỗi đầu đạn gấp 8 lần "Hiroshima". Do cùng kỹ thuật định hướng và vị trí bởi quán tính và các ngôi sao cũng như R-39 nên độ trính xác chỉ là 500mm, mặc dù độ chính xác thấp nhưng kỹ thuật này hoàn toàn có thể vượt qua nhiễu do các phát xạ từ tên lửa phòng thủ đất đối đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.





Khoang điều khiển của Denfin




[/COLOR]
 
Last edited:

mori

Member
Author
5.Tầu ngầm nguyên tử đa chức năng Virginia Class của Mỹ . Đây là loại tầu mới nhất , Mỹ dự tính sẽ sản xuất 18 chiếc loại này , giá thành mổi chiếc là hơn 2 tỷ thời giá 2002 . Đây là loại tầu đầu tiên của Mỹ được thiết kế theo lối Mô-đun , lối thiết kế này cho phép việc tu sửa , bảo trì rất dể dàng ít tốn kém và tương lai muốn nâng cấp toàn diện rất dể . ( không biết tầu ngầm các nước khác có dùng lối thiết kế Mô-đun không ? ) Tầu không có kính tiềm vọng , nó được thay bằng 3 camera IR , trắng đen và màu . Ngoài chức năng tấn công nó còn được trang bị thiết bị điện tử cho thám thính , tình báo và đổ bộ biệt kích . Các Bác nếu có thông tin về loại này đề nghị đưa lên với nhé .









6. Loại tầu ngầm tấn công tên lửa đạn đạo L''''Inflexible class của Pháp
Chiến tranh lạnh Sôviết -Mỹ lên gần đỉnh điểm, châu Âu kẹt giữa và Pháp hoàn toàn không muốn phụ thuộc vào Mỹ. Con gà trống Gôloa phải có tiếng gáy riêng của nó. L''''Inflexible class ra đời. Dài 128 m , 1 lò phản ứng hạt nhân, lặn sâu 250m. Kiểu dáng của nó đặc biệt giống 1 loài cá gì mà tôi không nhớ, có lẽ giống hải cẩu hoặc 1 loài cá voi thì đúng hơn. Thuỷ thu đoàn gồm 128 người. Hoả lực của nó ngoài ngư lôi còn có tên lửa đối hạm Exocet SM-39.
L''''Inflexible class mang 16 tên lửa M4 3 tầng đẩy chất rấn có tầm đánh 5300km, mỗi tên lửa mang 6 đầu đạn , mỗi đầu đạn có sức công phá 11 lần "hiroshima".




7. Loại tầu ngầm tấn công tên lửa đạn đạo class của Pháp
L''''''''Inflexible class đã cũ, Pháp cần loại tầu ngầm chiến lược mới để thay thế.Triomphant được thiết kế rất hiện đại, lớp vỏ của nó có sức chịu lực rất lớn.Nó được trang bị hệ thống Sona rất mạnh cả active lẫn passive (towed array). Thuỷ thu đoàn gồm 110 người. Hoả lực của nó gồm 18 ngư lôi và tên lửa đối hạm Exocet SM-39. Động cơ gồm 1 lò phản ứng.Tầm lặn 500m, thời gian hoạt động là 60 ngày. Kiểu dàng của nó giống các tầu ngậm hiện tại.
Triomphant mang 16 tên lửa M45 cải tiến từ M4 3 tầng đẩy chất rấn có tầm đánh 6000km, mỗi tên lửa mang 6 đầu đạn có sức công phá 11 lần "hiroshima". M45 còn có các đầu đạn giả gây nhiễu đi kèm.










8.Tàu ngầm tiến công tên lửa đạn đạo của Trung quốc loại Xia
4 hiện đại hoá đã được cụ thể hoá bằng trong những vũ khí nguyên tử là loại tầu ngầm Xia . Đây là những nỗ lực lấy công nghệ từ phương tây của TQ. Dài 120m, 01 lò phản ứng hạt nhân, trang bị vũ khí cũng như hệ thống Sona thì bình thường. Dường như tàu ngầm hoạt động không ổn định lắm vì chiếc tàu thứ 2 bị đắm khi chưa hoàn thiện và các serri sau đã phải huỷ bỏ.
Tàu ngầm mang được 12 tên lửa đạn đạo JL-1 chỉ có 01 đầu đạn hạt nhân sức công phá gấp 19 lần "hiro". JL-1 có 2 tầng đẩy rắn cự li khoảng 2000km với độ chính xác khoẳng 700m. TQ cũng đang phát triển JL-2 3 tầng đẩy cự li 8000Km với 6 đầu đạn hạt nhân.




Một số Sub của Nhật dùng trong chiến tranh thế giới lần 2 .
KD-3 9 chiếc được chế tạo từ 1927 đến 1930 . Trọng tải tối đa 2300 tấn . Động cơ Dầu-Điện . Tốc độ tối đa khi lặn là 8 hải lý/giờ .



KD-4 : 3 chiếc chế tạo trong thời gian 1929 - 1930 . Trọng tải 2300 tấn , vận tốc khi lặn 8 hải lý/giờ



KD-5 : 3 chiếc chế tạo năm 1932 trọng tải 1330 tấn . vận tốc 8 hải lý .



KD-6 : 8 chiếc chế tạo trong thời gian 1934-1938 . Trọng tải 2440 tấn vận tốc tối đa khi lặn 8,25 hải lý/giờ .



KD-7 10 chiếc chế tạo thời gian 1942-1943 . Trọng tải 2602 tấn , vận tốc khi lặn 8 hải lý/giờ .

Hầu hết đều bị đánh chìm trong chiếc tranh rất ít sống sót khi chiếc tranh kết thúc .
J1 : chế tạo dựa trên U-139 Đức . 4 chiếc chế tạo trong thời gian 1926-1929 . trọng tải tối đa 2791 tấn . tốc độ khi lặn 8 hải lý/giờ




J2 : 1 chiếc duy nhất chế tạo năm 1935 chìm năm 1944 . trọng tải 3061 tấn . tốc độ khi lặn 7,5 hải lý/giờ .



J3 : 2 chiếc chế tạo năm 1937-1938 . 2583 tấn , tốc độ khi lặn 8 hải lý/giờ .


C1 : 5 chiếc chế tạo trong những năm 1940-1941 . Trọng tải 3561 tấn , tốc độ tối đa khi lặn 8 hải lý/giờ .



C2 : 3 chiếc chế tạo trong khoảng 1943-1944 trọng tải 3564 tấn , tốc độ 8 hải lý /giờ

Tất cả các loại Sub trên đều là tầu tấn công động cơ dầu-điện . Còn nhiều loại như C3 , KD1( Kai Dai ).....



Tầu sân bay ngầm và cũng là tầu ngầm lớn nhất được chế tạo trước thời đại nguyên tử . Tuy nhiên chiếc tranh đã kết thúc trước khi những con tầu này chính thức được sử dụng . Đó là tầu ngầm Sensuikan-Toku có 3 chiếc do Nhật chế tạo năm 1944-1945 . Nó có cấu trúc gồm những thân tròn nằm bên trong một double hull ( võ tầu cấu trúc 2 lớp ) gần tương tự như Sô Viết Ty-phoon 40 năm sau . Có một thân tròn bên trên được dùng cho chuyên chở máy bay loại
Saikan . Một loại thuỷ phi cơ ném bom và đánh ngư lôi của Hải quân Nhật lúc đó . Tầu có trọng tải 6560 tấn . Dùng 4 máy dầu 7nghìn700 HP mổi máy và máy điện 2 nghìn 400 HP . Tốc độ tối đa khi lặn là 6,5 hải lý/giờ .





 
Last edited:

mori

Member
Author
Con tàu phá băng mang tên Lenin hoạt động từ năm 1959 và trở thành tàu dân sự đầu tên trên thế giới chạy bằng năng lượng nguyên tử. Tàu hoạt động bền bỉ suốt 30 năm thì chấm dứt sứ mệnh năm 1989 và được đưa vào bảo tàng.
Tàu phá băng Lenin hạ thủy ngày 5/9/1959 tại Leningrad, nay là thành phố St. Petersburg.
Các nhà khoa học Liên Xô làm việc trên khoang điều khiển của tàu Lenin.
Các động cơ điện bên trong khoang turbine của tàu năm 1959.
Thủy thủ đoàn tàu phá băng Lenin tranh thủ trượt băng khi tạm dừng ở Bắc Bắc Dương năm 1960.
Một thủy thủ đang điều khiển máy tời đặt ở phía sau tàu năm 1960.
Phần mũi của tàu Lenin đang phá băng năm 1964 với tốc độ lên tới 19 km/h.
Tàu phá băng Lenin tại Bắc Băng Dương năm 1972.
Tàu neo tại cảng Murmansk của Nga trong mìn mù sương khói mùa đông năm 1979.
Thủy thủ đoàn tại phòng ăn của tàu năm 1982.
Tàu phá băng hạt nhân Lenin tại xưởng đóng tàu năm 2005. Nó đang được lắp đặt các thiết bị mới để chuyển vào Bảo tàng lịch sử hàng hải Biển Bắc và Bắc Băng Dương của Nga. http://www.tin247.com
 

mori

Member
Author
Kenichi Horie, người Nhật Bản, hôm qua đã hạ thuỷ một chiếc bè được quảng cáo là phục vụ chuyến đi xuyên biển đầu tiên trên thế giới bằng một con tàu "chạy bằng sức sóng".
Chiếc Suntory Mermaid II làm toàn bộ từ nhôm được lập trình cho chuyến đi gần 6.000 km từ Hawaii tới bán đảo Kii, phía tây Nhật Bản vào năm tới.
Horie trên con tàu chạy bằng sức sóng. Ảnh: AFP.
"Cũng như gió, sóng là nguồn năng lượng vô tận. Nó phù hợp cho một chuyến đi dài ngày", người đàn ông 68 tuổi cho biết sau khi lái chiếc tàu dài hơn 9 mét chạy thử một quãng ngắn trên biển nội địa Setouchi.
"Biển Setouchi bình lặng như mọi khi nhưng con thuyền di chuyển khá tốt. Tôi có thể trông đợi kết quả sẽ tốt hơn khi ra đến biển lớn", ông nói.
Chiếc tàu (kiểu bè) nặng 3 tấn này có hai tấm thăng bằng đặt song song ở đằng mũi, sẽ chuyển hoá sự vận động của sóng thành những cú đẩy về phía sau giống như kiểu cá heo để đẩy con tàu tiến lên. Tàu cũng sẽ mang theo một động cơ và một chiếc buồm dùng trong trường hợp khẩn cấp.
Horie dự kiến khởi hành khỏi Honolulu vào giữa tháng ba năm 2008 và có thể đi với tốc độ trung bình 5,6 km mỗi giờ, cho hành trình xuyên Thái Bình Dương trong 2,5 tháng.
Horie từng nổi tiếng trên báo chí vào năm 1962 khi ông thực hiện chuyến đi một mình dài 94 ngày băng qua Thái Bình Dương trên chiếc thuyền nhẹ Mernaid, không hề có hộ chiếu hay tiền.
Kể từ đó, ông đã đơn độc thực hiện nhiều chuyến hải trình, trong đó có một chuyến vòng quanh thế giới không nghỉ từ Đông sang Tây năm 1974 và một lần khác từ Bắc xuống Nam năm 1978.
Năm 1996, ông đã lập kỷ lục thế giới khi trở thành người vượt Thái Bình Dương nhanh nhất trên một con thuyền chạy bằng năng lượng mặt trời, khi đi liền một mạch 16.000 km không nghỉ từ Salina (Ecuador) tới Tokyo, trong 148 ngày.
Con thuyền mới nhất được trang bị các tấm pin mặt trời để cung cấp điện cho các thiết bị định vị, như radar và các đồ dùng như lò nướng.
Hành trình gần đây nhất không nghỉ của ông vòng quanh thế giới kéo dài từ tháng 10/2004 đến tháng 6/2005.
"Trong 2 thập kỷ, trung bình cứ mỗi 3 năm tôi thực hiện một chuyến đi dài. Vì thế sau dự án năng lượng sóng này, tôi sẽ lập kế hoạch cho một chuyến đi khác vào năm 2011 để kỷ niệm 50 năm ngày hành trình 'một mình trên Thái Bình Dương'", ông nói.
http://www.tin247.com
 

mori

Member
Author
Handy và Handymax
: theo truyền thống, chủ lực của thị trường tàu chở hàng khô xô, tàu Handy và Handymax thông dụng có trọng tải 60.000 DWT trở xuống. Tàu Handymax tiêu biểu dài khoảng 150 đến 200m, và đôi khi bị hạn chế về bến tàu hàng dạng khô xô đặc biệt (các bến như vậy ở Nhật Bản chỉ cho tàu dưới 190m cập cầu). Thiết kế của các tàu Handymax hiện tại với cỡ tàu tiêu biểu là 52.000 đến 58.000 DWT, có 5 hầm hàng và 5 cần cẩu có khả năng cẩu được 30 khối hàng.

Aframax: Tàu chở đầu thô và đầu sản phẩm trọng tải khoảng 80.000 - 120.000 DWT. Đây là cỡ tàu lớn nhất theo hệ thống phân loại tàu dầu AFRA. (Average Freight Rate Assessment)
Panamax:
Tàu Panamax là loại tàu lớn nhất có thể được chấp nhận đi qua kênh đào Panama, khái niệm này có thể áp dụng cho cả tàu hàng khô và hàng lỏng. Kích thước được xác định bằng kích thước của các khoang tập kết của kênh. Mỗi khoang này rộng 33,53m và dài 320m. Chiều dài sử dụng của mỗi khoang là 304,6m. Độ sâu trong các khoang tập kết là khác nhau, nhưng độ sâu thấp nhất là tại phía Nam lối vào của Pedro Miguel Locks, chỉ là 12,55m, tại Miraflores Lake level có độ sâu bình quân 16,61 m. Chiều cao của cầu Bridge of the Americas at Balboa được lấy để giới hạn độ cao lớn nhất của tàu.

Seawaymax: Thuật ngữ Seawaymax dùng cho các tàu có kích thước lớn nhất có thể đi lọt phần hẹp nhất của kênh St Lawrence Seaway.
Tàu Seawaymax dài tối đa 226m và rộng 24m, mớn nước tối đa 7,92m. Một số tàu lớn hơn cỡ này hành trình từ Great Lakes nhưng không thể chạy đến Đại Tây dương. Kích thước của các đoạn thắt hạn chế cỡ tàu và kéo theo hạn chế lượng hàng hóa chúng có thể chuyên chở. Kỷ lục lưng hàng lớn nhất được ghi nhận của tàu Seawaymax là 28.502 tấn quặng sắt, trong khi kỷ lục của tàu chạy qua các đoạn thắt của Great Lakes Waterway là 72.351 tấn. Tuy vậy phần lớn các tàu mới chạy trong vùng Great Lakes được đóng tới giới hạn Seawaymax nhằm nâng cao tính linh hoạt bằng cách cho phép khả năng chạy ở ngoài khu vực.
Suezmax:
Suezmax là những tàu có kích thước đạt mức tối đa về giới hạn của kênh đào Suez, tuy vậy khái niệm này đã mở rộng hơn. Trước 1967, kênh đào Suez chỉ có thể nhận được tàu dầu trọng tải tối đa 80.000 DWT. Sau khi chiến tranh chấm đứt, kênh mở lại với nhiều thay đổi đối với các điểm thắt toàn kênh, trọng tải tối đa được tăng lên đến 200.000 DWT

Capesize: Capesize hàm ý đến một tiêu chuẩn mập mờ có đặc điểm chung là không có khả năng hoạt động cả ở kênh đào Panama và cả ở kênh đào Suez, không biết trọng tải là bao mà chỉ quan tâm đến kích thước.
Những tàu này hoạt động ở những cảng nước sâu, làm các loại hàng ở dạng thô như là quặng sắt và than. Vì lý do trên tàu Capesize thường hành trình qua lối mũi Cape Horn (Nam Mỹ) hay Cape of Good Hope (Nam Phi).
Cỡ các tàu này thường trong giới hạn 80.000- 175.000 DWT. Do kích thước lớn, các tàu này thường chỉ ghé vào một số cảng trên thế giới có hạ tầng kỹ thuật thích hợp.
VLCC
: Các tàu chở dầu thô rất lớn, VLCC có trọng tải 150.000-320.000 DWT. Các tàu này cho ta lựa chọn khác nhau trong sử dụng cầu bến vì nhiều bến có thể chấp nhận được mớn của chúng. Các tàu này thường được sử dụng chở hàng đến các cảng bị giới hạn về độ sâu chủ yếu cảng ở khu vực Địa Trung Hải, Tây Phi và Biển Bắc. Chúng có thể qua kênh Suez khi không tải.


ULCC: Các tàu chở dầu thô cực lớn, ULCC, có trọng tải 320.000-550.000 DWT. Chúng được sử dụng ch dầu thô trên các tuyến đường dài từ vịnh Pécxích đến châu Âu và Đông Á, qua Cape of Good Hope hoặc eo biển Malacca. Vì lý do của kích cỡ, loại tàu này yêu cầu các bến chuyên dụng
Theo Tạp chí hàng hải 10/2007
 

mori

Member
Author
Một số hình ảnh tàu chở dầu và hàng :
Một tàu chở dầu do Vinashin đóng mới.




Chiếc tàu mang tên Bourbon Dolphin, thuộc quyền sở hữu của Công ty tầu biển Bourbon AS, Na Uy.

Tàu chở dầu 13.500 DWT​

Tàu chở dầu 40.000 DWT​

Tàu chở dầu từ 20.000:30.000 DWT​

Tàu chở dầu sản phẩm 100.000 DWT​

Tàu chở dầu sản phẩm 250.000 DWT​

Tàu hàng 1016 TEU​

Tàu hàng Container​

Sản phẩm tàu hàng 6.500 DWT​

Tàu hàng 12.000 DWT​

 
Last edited:

mori

Member
Author
Du thuyền nhé:
“Khi một chiếc du thuyền có chiều dài lớn hơn 328 foot, cả thế giới sẽ biết đến chủ nhân của nó".
Du thuyền của Sadam Hussein

Các loại tàu khách:









Tàu Costa Allegra. Ảnh: prodejce.costa.cz
 
Q

queodat

Ông anh quả là người hiểu biết sâu rộng, giúp cho mọi người hiểu thêm rất nhiều điều về tàu ngầm, và hy vọng rằng nó sẽ khơi dậy trong lòng những người việt nam tính tự hào dân tộc,rồi từ đó mà học hỏi các nước tiên tiến, để có thể tự chế tạo cho đất nước những chiếc như vậy trong tương lai không xa.
 
H

hgmhtrg

òa dẹp thiệt.
anh ơi thế việt nam mình có tầu ngầm không anh.
thằng TQ nó có rùi .VN cẩn thận nó lại đưa tầu vào tận Vịnh Hạ Long mà không biết ý
 
Author
Ack mấy bài này là mình đi copy thôi chứ đâu phải mình hiểu biết rộng vậy. Cám ơn các bạn. Việt Nam mình tuy chưa có tàu ngầm nhưng đang có nhiều nhóm nghiên cứu về các thiết bị lặn (AUV & ROV) cũng như về tàu ngầm, Nếu các bạn quan tâm mình sẽ cung cấp 1 số tài liệu ít ỏi.Chính vì VN có đường bờ biển dài và tiềm năng biển nên nhà nước đang ưu tiên phải nói là hơi quá mức cho ngành đóng tàu, cũng bởi vì chậm giây phút nào thiệt hại không thể tính được
 
H

hgmhtrg

vâng thế thì tốt quá . em đang muốn tìm hiểu về mấy cái này.
biết một ít còn hơn là không biết gì

------------------------------------
@: lần sau viết có dấu bạn nhé ! Thanks
 
Last edited by a moderator:
Author
Tàu thăm dò Impeccable của hải quân Mỹ
USNS Impeccable is one of the five Ocean Surveillance Ships that are part of the 25 ships in Military Sealift Command's Special Mission Ships Program.
• Length: 281.5 feet• Beam: 95.8 feet• Draft: 26 feet• Displacement: 5,368 long tons• Speed: 12.0 knots• Civilian: 25 contract mariners• Military: 25• Government-Owned/
Chartered: Government-owned
 
Author
Tàu chiến của Hải Quân Việt Nam

Nguồn kimcokynhan wordpress

Lang thang trên mạng với sự tò mò của nghề tàu thủy, tôi may mắn tìm được các thông tin lý thú sau :

Hải quân Việt Nam hiện nay được cho là có khoảng 50 chiến hạm cỡ nhỏ với trang bị lạc hậu và khoảng vài trăm tàu xuồng chiến đấu trên sông. Các chiến hạm chủ yếu được chuyển giao từ Liên Xô cũ và một phần là chiến lợi phẩm từ hải quân Ngụy. Hiện nay Việt Nam đã tự đóng được vài chiến hạm nhỏ. Với mục tiêu từng bước hiện đại hóa hải quân, Việt Nam đã mua vài chiếc khu trục hạm lớp Gepard.
Dưới đây là một số chiến hạm đang sử dụng trong lực lượng HQNDVN :
Chiến hạm Việt Nam: Petya II - III
Petya II và III là lớp chiến hạm hiện đại đầu tiên được HQNDVN nhận về sau khi giải phóng miền nam, năm 1978-1979 đã tham chiến trong cuộc chiến với Khmer đỏ. Hiện nay Petya vẫn còn phục vụ trong lực lượng HQ Việt Nam
Tàu hộ tống lớp P
/B]


Độ giãn nước: 1,077 tấn
Kích thước: 81.8 x 9.2 x 2.85 mét
Sức đẩy: 3 trục; 6,000 bhp; 2 động cơ đẩy gas turbines 30,000 shp; 29 hải lý/
giờ
Thủy thủ đoàn: 92
Radar: Fut-N/Strut Curve 2-D
Vũ khí: 2 tháp pháo với súng 2 nòng 76.2mm, 2 ống phóng ngư lôi 15.8 inch, 2
giàn phóng rócket RBU-6000 ASW RL
Nguồn gốc: Khu trục hạm cỡ nhỏ của Liên Xô, chuyển giao cho Việt Nam.
Nơi sản xuất: Yantar Zavod, Kaliningrad, Russia.

Tàu tuần tiễu lớp P
/B]

Độ giãn nước: 1,040 tấn
Kích thước: 81.8 x 9.2 x 2.72 mét
Sức đẩy: 3 trục; 1 cruise diesel, 6,000 bhp; 2 boost gas turbines, 30,000 shp;
29 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 92
Radar: Fut-N/Strut Curve 2-D air search
Sonar: Titan hull mounted MF
EW: Bizan-4B suite with Watch Dog intercept
Vũ khí: 2 tháp pháo với súng 2 nòng 76.2mm, 3 ống phóng ngư lôi 15.8 inch, 4
giàn phóng rócket RBU-6000 ASW RL
Nguồn gốc: tàu tuần tiễu xuất khẩu của Nga, Việt Nam nhận năm 1978. Việt Nam
hiện có 2 chiếc HQ-09, HQ-11.


Petya là tàu khu trục cỡ nhỏ do Liên Xô chế tạo với chức năng chính là tuần tra bờ biển và chống tàu ngầm. Tổng cộng có khoảng 45 chiếc được chế tạo và sử dụng tại Liên Xô, trong đó có 18 P
, 27 chiếc P
. Phiên bản P
dành cho xuất khẩu.
Việt Nam nhận 3 chiếc P
đã qua sử dụng của Liên Xô và sau đó là 2 chiếc P
vào năm 1978
Petya được thiết kế theo kiểu cổ điển từ thời chiến tranh thế giới thứ 2, mặc dù thời điểm nó sinh ra là vào thập niên 60, có lẽ do Petya không phải là lực lượng chiến đấu xung kích trong hải quân Xo Viết. Nhiệm vụ chính của Petya là tuần tra bờ biển và chống tàu ngầm. Tuy nhiên khả năng chống ngầm của Petya cũng còn hạn chế.
Vũ khí
P
có 2 tháp pháo với đại bác đôi 76,2 mm AK-726 với tầm bắn thẳng mục tiêu trên biển xa 8.2 km. AK-726 được điểu khiển bằng hệ thống tự động Fut-B có thể bắn hạ máy bay có tốc độ bay từ 350 – 650 m/s, ở độ cao từ 500 – 6000 m. Tầm bắn tối đa là 18,3 km. Tốc độ bắn là 45 viên trong 1 phút. Tuy nhiên đây là hệ thống pháo khá cũ được sản xuất vào các năm 1958 – 1964, cho nên có nhiều hạn chế về tầm bắn cũng như độ chính xác.

P
còn có 2 dàn Rocket RBU-6000 chống ngầm với 12 ống phóng mỗi dàn, sử dụng rocket cỡ 213 mm RGB-60 không điều khiển có khả năng bắn xuống mặt nước sâu từ 10-500m với tốc độ 11,5 m/s, tầm xa từ 350 – 5800 m. RBU-6000 được điều khiển bởi hệ thống Burya, ngoài nhiệm vụ chính là chống tàu ngầm và tàu chiến khác, RBU-6000 còn dùng để oanh kích các mục tiêu bờ biển. Ngoài ra P
còn có 10 trái ngư lôi cỡ 400 mm

Khả năng phòng thủ cũng như chiến đấu của Petya rất hạn chế vì tất cả hỏa lực của nó điều là hỏa lực trực tiếp có tầm xạ kích hiệu quả dưới 10 km, trong khi đó các tàu chiến hiện tại đều dùng hỏa tiễn hải đối hải với tầm bắn lên đến hàng trăm km. Tốc độ của Petya khá chậm 29 hải lý/giờ. Tuy nhiên với điều kiện kinh phí cho hải quân còn thấp, Việt Nam vẫn duy trì hạm đội Petya, nhưng với chức năng phòng thủ các cảng sông mà thôi.
Tàu hỏa tiễn cỡ nhỏ lớp BPS 500

Bắn đạn thật

Độ giãn nước: 517 tấn
Kích thước: 62 x 11 x 2.5 mét/203.4 x 36 x 8.2 feet
Sức đẩy: 2 động cơ diesel, 2 waterjets, 19,600 bhp, 32 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 28
Radar: Positiv-E/Cross Dome air/surf search
EW: 2 PK-16 decoy
Vũ khí: 8 hỏa tiễn Kh-35 Uran SSM, 1 đại bác 76.2mm, 1 súng phòng không 30 mm,
2 súng 12.7 mm MG
Nguồn gốc: Nga thiết kế, được đóng tại Việt Nam
 
Author
Tàu tên lửa Tarantul I
Tàu phóng tên lửa lớp Tarantul I (Molniya) đã có mặt tại Việt Nam vào năm 1999. Và Việt Nam mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 4 chiếc Tarantul 1, và 2 chiếc Tarantul thế hệ mới thuộc project 1412.8. Trong tương lai sẽ đóng thêm 20 chiếc Tarantul nữa
Tàu chiến Tarantul dùng để tác chiến tại các vùng cửa biển và ven bờ. Tàu Tarantul trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại và các khí tài tiên tiến, có khả năng độc lập tác chiến và chiến đấu hiệp đồng trong đội hình biên đội.


- Tàu tên lửa Tarantul được phát triển theo dự án số 12421 của Nga, bao gồm: Tàu chiến đấu, tàu bổ trợ và tàu tuần tra tại các vùng cửa biển, ven bờ. Tàu tên lửa Tarantul trang bị đầy đủ các thiết bị trinh sát và truyền tin, các hệ thống ra-đa trinh sát và kiểm soát xạ kích. Ra-đa có tầm bao quát toàn bộ vùng tác chiến trong tầm bắn của tên lửa, bám tín hiệu 15 mục tiêu và khoá tới 6 mục tiêu trong môi trường tác chiến điện tử. Hệ thống ra-đa kiểm soát bắn của pháo và tên lửa trên tàu có khả năng phát hiện các mục tiêu trên không, trên biển, tự động dò tìm các tín hiệu đặc trưng của mục tiêu và xử lý các tín hiệu đó chuyển thành dữ liệu tác xạ trên máy tính.
* Vũ khí chính trang bị trên tàu Tarantul gồm:
- Trang bị hệ thống tên lửa đối hạm với giàn phóng tên lửa U-ran phóng tên lửa hành trình Kh-35 sắp xếp thành hai hàng, mỗi hàng 8 ống phóng (16 tên lửa). Tên lửa hành trình Kh-35 dẫn bằng ra-đa chủ động giai đoạn cuối. Trên hành trình bay, tên lửa bay cách mặt nước 15 mét, ở giai đoạn cuối chúng hạ thấp độ cao và tiêu diệt mục tiêu chỉ ở độ cao từ 3 mét đến 5 mét. Tên lửa Kh-35 có cự ly tác chiến 130km, tốc độ tối đa khoảng 300 m/s, đầu nổ HE nặng 145 kg
- Hoặc tên lửa hành trình đối hạm Moskit - SS-N-22 với 2 giàn phóng (tổng cộng có 4 tên lửa), tầm xa 90 – 120 km, tốc độ siêu âm. Tầm bắn tối đa 250km, tốc độ mach 3, trần bay cách mặt nước biển 20m, đầu nổ 320 kg
- Hoặc tên lửa hành trình đối hạm P-15 Termit “SS-N-2C” với 2 giàn phóng (tổng cộng có 4 tên lửa), tầm xa 80 km, tốc độ March 0.9.
- 12 tên lửa phòng không
;
- 1 pháo hạm 76mm AK-176M (với 316 viên đạn), tầm xa 15 km
- Hai pháo phòng không 30mm AK-630M.





Hệ thống ra-đa trên tàu có: Ra-đa trinh sát băng HF, UHF, ra-đa nhận biết mục tiêu không-biển, ra-đa điều khiển, kiểm soát xạ kích cho tên lửa. 2 hệ thống phóng mồi bẫy và mồi bẫy nhiệt PK-10 cỡ 120 mm hoặc PK – 16 dùng để chống ra-đa và hệ thống trinh sát quang học của các hệ thống vũ khí của đối phương. Đạn mồi bẫy PK-16 cỡ 82mm, tầm hoạt động từ 200 mét đến 1800 mét.
Tàu tên lửa Tarantul có lượng giãn nước 550 tấn, trang bị máy chính 2 trục, động cơ
khí 32.000 sức ngựa, 3 động cơ Diesel, công suất 500kW mỗi động cơ. Tàu có tầm hoạt động 2400 hải lý, hoạt động liên tục trong thời gian 10 ngày. Toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên tàu 44 người. Tàu còn trang bị các thiết bị điều hoà không khí, hệ thống thông gió tiên tiến nhất, bảo đảm cho tàu hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết.
Việt Nam đã mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Sẽ có khoảng 20 chiếc sẽ ra đời tại Việt Nam
Theo một số nguồn tin nước ngoài, 2 tàu Tarantul thế hệ mới cũng đã có mặt tại Việt Nam . Đây chính là 2 tàu đầu tiên thuộc Project 1241.8 “Thần Sấm”. Loại này có tầm hoạt động và hệ thống vũ khí tấn công hơn hẳn Tarantul 1. 2 chiếc này nằm trong hợp đồng mua 12 chiếc Taratul Project 1241.8 mà VN đã ký với Nga. Số còn lại sẽ do VN tự đóng theo công nghệ được chuyển giao .
Theo một số chuyên gia nước ngoài phân tích, Với 2 chiếc Gepard (sẽ về Việt Nam cuối năm 2009) và trên 20 Tarantul hải quân Việt Nam sẽ tiến tới thành lập hạm đội biển Đông với trên dưới 30 chiến hạm hiện đại.
 
Author
Khu trục hạm Gepard

Dài 102m, trọng tải 1,900 tấn, tốc độ 26 knots, trang bị 8 hỏa tiễn SSN-25, có từ một tới ba đai bác 76 ly, bốn ống phóng thủy lôi và có khả năng tránh radar sẽ là một đối thủ đáng gờm cho các hạm đội các nước khác trong khu vực).
Ngày 29 Tháng Mười Một, đài BBC dẫn các nguồn tin trên báo chí Nga cho biết, Việt Nam đã đặt xưởng đóng tàu Zelenodollsk ở Tatarstan (chuyên đóng tàu cho hạm đội biển Caspi), đóng tàu tuần duyên loại Gepard. Tàu tuần duyên loại Gepard dài 102m, trọng tải 1,900 tấn, tốc độ 26 knots, trang bị 8 hỏa tiễn SSN-25, có từ một tới ba đai bác 76 ly, bốn ống phóng thủy lôi và có khả năng tránh radar.
Ruslan Fatkhutdinov - một phóng viên của đài truyền hình Russian Zvezda đã đến tận nơi để quan sát 80 công nhân đang đóng chiếc tàu thứ hai. Theo phóng viên, các đơn đặt hàng từ Ðông Nam Á đã giúp công nhân xưởng đóng tàu Zelenodolsk có việc làm.
BBC cho biết, cuối năm ngoái, hải quân Việt Nam đã mua một chiếc tàu tuần duyên loại Molniya của KSMK - một xưởng đóng tàu khác ở Nga. Molniya được trang bị hỏa tiễn Uran-E. Năm nay, KSMK sẽ giao thêm một chiếc Molniya nữa. Sau đó, 20 chiếc còn lại sẽ được phía Nga chuyển giao kỹ thuật để đóng tại Việt Nam.
Vào thời điểm đó, ông Mikhail Dmitriev, giám đốc cơ quan liên bang về hợp tác quân sự và kỹ thuật với nước ngoài cho hãng thông tấn Nga Itar-Tass biết: Thỏa thuận bán phương tiện quân sự giữa Nga và Việt Nam có giá trị khoảng $1 tỉ USD, không giới hạn thời gian. Lúc đó, ông Mikhail Dmitriev đã tiết lộ sẽ bán cho Việt Nam hai chiếc tàu tuần duyên loại Gepard, trang bị hỏa tiễn nhỏ hơn cho Việt Nam vì: “Việt Nam là đối tác chiến lược của Liên Bang Nga trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự và Việt Nam là một trong 10 nước đầu tiên mà Nga có sự hợp tác ở qui mô lớn nhất”.
Cũng theo BBC, ông Anatoliy Nikitin - chủ nhiệm một phân xưởng của xưởng đóng tàu Zelenodolsk thì nhờ những hợp đồng này mà kỹ sư và công nhân được nhận đủ lương và nhận lương đúng hạn.
Hộ tống hạm “Tartarstan” loại Gepard của Nga
Chiếc tàu duyên hải loại Gepard đầu tiên đã đóng được 20% và theo dự kiến sẽ có mặt tại biển Ðông vào giữa năm 2009. Còn chiếc thứ nhì thì sẽ hạ thủy vào năm 2010. Trong một tin phát trên đài truyền hình Russian Zvezda, hải quân Việt Nam đã gửi lời cám ơn nhân viên xưởng đóng tàu Zelenodolsk.
Ông Sergey Ilin - giám đốc xưởng đóng tàu Zelenodolsk - kể với đài truyền hình Zvezda rằng, để nhận được hợp đòng đóng tàu chiến cho Việt Nam, ông đã bay sang Hà Nội tám lần. Tuy không cho biết tổng giá trị hợp đồng là bao nhiêu và Việt Nam sẽ đặt đóng bao nhiêu tàu nhưng tin của Russian Zvezda TV cho biết, xưởng đóng tàu Zelenodolsk có việc làm cho đến năm 2012.
BBC nhận định, trước đây, Việt Nam vừa mua, vừa nhận viện trợ quân sự từ Liên Xô. Sự hợp tác trong lĩnh vực quân sự chỉ suy giảm sau khi Liên Xô tan rã, Nga quyết định rút tàu chiến khỏi vịnh Cam Ranh vào năm 2002. Nay, trong bối cảnh mới, Việt Nam cũng như nhiều nước Ðông Nam Á đang trở lại Ðông Âu và khu vực thuộc Liên Xô cũ để mua vũ khí.
Hồi Tháng Hai năm nay, BBC đã từng đưa tin Nga thiết lập hai trung tâm bảo trì vũ khí do họ sản xuất, một tại Việt Nam và một tại Trung Quốc. Trước đó, Nga đã thiết lập một trung tâm như vậy tại Ethiopia và dự trù sẽ mở thêm những trung tâm tương tự ở Jordan và Algeria.
Tàu tên lửa lớp
/B]
Độ giãn nước: 226 tấn
Kích thước: 38.6 x 7.6 x 2 mét
Sức đẩy: 3 động cơ diesel, 3 trục, 15,000 bhp, 35 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 28
Vũ khí: 4 hỏa tiễn SS-N-2B Styx SSM, 2 dual 30 mm
Nguồn gốc: Liên xô sản xuất, 8 chiếc được giao trong năm 1979-81.

Tàu Osa là lọai tàu tấn công cao tốc do Liên xô phát triển vào đầu thập niên 1960 theo các dự án 250 (Osa 1) và 250U (Osa 2). Đây là lọai tàu chiến được sản xuất với số lượng nhiều nhất, trên 400 chiếc được xuất xưởng.
Chữ Osa có nghĩa là Ong bắp cày, nó mang tên này do đặc điểm chiến đấu của mình. Việt Nam hiện có khỏang 8 chiếc Osa 2 vẫn còn họat động tốt.
Tàu Osa đựơc phát triển nhằm thay thế loại tàu tấn công “Komar” – Loại chiến hạm mini đầu tiên trên thế giới có trang bị hỏa tiễn đối hạm, có khả năng đánh chìm một chiến hạm to hơn nó gấp nhiều lần. Thân tàu Osa được làm bằng hợp kim nhẹ với cấu trúc đặc biệt cùng với 3 động cơ công suất 12000 mã lực và 3 chân vịt, điều này giúp Osa đạt được tốc độ 40 hải lý/giờ

Vũ khí chính là 4 hỏa tiễn P-15 / SS-N2 được điều khiển bằng ra đa có khả năng đánh chìm 1 chiến hạm to lớn gấp 10 lần Osa ở khỏang cách hơn 80 km. Theo lý thuyết cần 6 Osa để đánh chìm một khu trục hạm 20.000 tấn. Vũ khí phụ của Osa là 4 đại bác 30mm AK-230, chủ yếu đề phòng không hơn là chiến đấu với tàu chiến khác.
Chiến thuật chủ yếu của Osa là “đánh và chạy”, lợi dụng tốc độ cao của mình Osa bất ngờ tiếp cận đối thủ và phóng tên lửa sau đó chạy thật nhanh trước khi tàu địch kịp phản ứng, nếu có máy bay địch truy kích thì dùng 4 súng phòng không để chống trả. Chiến thuật này có phần giống các tàu phóng lôi, nhưng khác ở cự ly tiếp cận là vài chục km và vũ khí là hỏa tiễn có tốc độ nhanh hơn nhiều so với ngư lôi.

Osa đã tham chiến nhiều trận, trong đó Osa chịu nhiều tổn thất trong cuộc chiến tranh Iraq-Iran 1980. Điểm yếu chính là hệ thống điều khiển tên lửa và khả năng tự vệ không cao. Tuy nhiên với khối lượng chỉ 200 tấn và tốc độ cao cùng với 4 hỏa tiễn chết người, Osa vẫn là một đối thủ đáng gờm, đặc biệt khi hành quân với số lượng lớn.
Ngày nay, Osa vẫn là vũ khí chính của hải quân ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy vậy Tarantul vẫn là lựa chọn số một dành cho dòng tàu cao tốc mang tên lửa.
Tàu phóng lôi lớp Turya
Độ giãn nước: 250 tấn
Kích thước: 39.6 x 7.6 x 2 mét
Kích thước: 39.6 x 9.6 x 4 mét
Sức đẩy: 3 động cơ diesel, 3 trục, 15,000 bhp, 37 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 26
Sonar: Rat Tail dipping
Vũ khí: 1 tháp pháo gắn súng 2 nòng 57mm/70cal AA, 1 súng 2 nòng 25 mm, 4 ống
phóng ngư lôi 21 inch
Nguồn gốc: Liên Xô sản xuất giao năm 1984.
Nơi sản xuất: Vladivostokskiy Sudostroitel’niy Zavod, Vladivostok, Russia.

SO 1 class patrol boats
Độ giãn nước: 213 tấn
Kích thước: 41.9 x 6.1 x 1.8 mét
Sức đẩy: 3 động cơ diesel, 3 trục, 6,000 bhp, 28 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 33
Vũ khí: 2 súng 2 nòng 25 mm, 4 hỏa tiễn RBU-1200 ASW RL, 18 mìn
Tàu phóng lôi lớp Shershen
Độ giãn nước: 161 tấn
Kích thước: 34.60 x 6.74 x 1.72 mét
Sức đẩy: 3 động cơ diesel, 3 trục, 12,000 bhp, 42 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 22
Vũ khí: 2 dual 30 mm, 4 21 inch torpedo tubes, mines
Nguồn gốc: Liên Xô sản xuất giao năm 1979-1983.

Tàu quét mìn lớp Yurka
Độ giãn nước: 560 tấn full load
Kích thước: 52.1 x 9.6 x 2.65 mét/171 x 31.5 x 8.7 feet
Sức đẩy: 2 động cơ diesel, 2 trục, 5,000 bhp, 16 hải lý/ giờ
Thủy thủ đoàn: 46
Sonar: MG-69 Lan’ mine avoidance
Vũ khí: 2 dual 30 mm, 10 mines
Nguồn gốc: Ex-Soviet steel-hulled minesweepers.
Nơi sản xuất: Vladivostokskiy Sudostroitel’niy Zavod, Vladivostok, Russia.
Khu trục hạm Phạm Ngũ Lão
Độ giãn nước: approx. 2,800 tấn full load 2800 tấn
Kích thước: 94.7 x 12.5 x 4.1 mét
Sức đẩy: 4 động cơ diesel, 2 trục, 6000 bhp, 18 hải lý/ giờ nominal
Thủy thủ đoàn: 200
Vũ khí: 3 37 mm, 2 dual 25 mm, 2 SA-N-5 SAM, 2 cối 81 mm
Nguồn gốc: Đây là khu trục hạm chiến lợi phẩm thu được của hải quân ngụy, ban
đầu thuộc lực lượng tuần duyên Hoa kỳ sau đó chuyển giao do hải quân Nam Việt
Nam. Vũ khí trên tàu đã được thay thế bằng vũ khí của Liên Xô
Nơi sản xuất: Lake Washington SY, Houghton, WA.

Những hình ảnh khác







Bài này được tổng hợp từ 3 nguồn sau đây :
1- http://huynhphuclinh.wordpress.com
2- http://vndefence.info
3- http://www.ng
.com

và một vài diễn đàn
 
Nga chuẩn bị lắp 6 tàu ngầm Kilo cho VN http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/04/090427_russia_viet_sub.shtml

Tàu ngầm hạng Kilo, sử dụng cả điện năng lẫn dầu diesel, được cho là loại tàu ngầm ít tiếng ồn nhất thế giới. Nó còn được đặt biệt danh "Lỗ đen" vì có khả năng bất thần "biến mất" để tránh bị phát hiện.
Tàu ngầm dạng này có thể dùng để chống tàu ngầm cũng như tàu chiến thông thường, và trong hoạt động tuần tra.

Tàu này có trọng tải 2.300 tấn, đạt độ sâu 350 mét, tầm xa 6.000 hải lý và có thủy thủ đoàn 57 người.

 
Author
Bác cũng hay đọc bbc nhỉ, cẩn thận bị theo dõi đó hie hie hie, bao giờ mình đóng được vài cái này nhỉ, TQ nó có gần trăm cái rồi
 
H

hgmhtrg

xa vời quá, e cung hi vọng khoảng 10-20 năm nữa là có hàng trăm cái, nhưng đến khi đó Biển Đông thuộc Trung Quốc có khi
đôi khi mình cũng phải tham khảo "đài địch" để biết thêm một số thông tin chứ, chứ như các báo ở VN này cứ khẽ nhắc đến Biển Đông là có thể bị đình bản ngay
 
Top